10 năm, tiếp tục kêu cứu bị ‘hình sự hóa quan hệ kinh tế’

10 năm, tiếp tục kêu cứu bị ‘hình sự hóa quan hệ kinh tế’

bởi

trong

Công ty USPC là doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm hải sản đông lạnh từ năm 2003. Đến năm 2014, sau khi bà Trang bị bắt thì dường như hoạt động của công ty phải ngưng. Vụ án liên quan đến thỏa thuận hợp tác sản xuất gia công và xuất khẩu 11.062,04 kg cá ngừ đông lạnh giữa USPC và Công ty CP Tuna Fish Bình Định (gọi tắt Tuna Fish Bình Định).

Sau 8 năm tòa trả hồ sơ, vụ án chưa đến hồi kết

Theo hồ sơ vụ án, ngày 18.11.2014, bà Trang bị Công an tỉnh Bình Dương bắt. Đầu tháng 5.2015, ông Byron đến Báo Thanh Niên cầu cứu vì việc bà Trang bị tạm giam đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty, được phản ánh trong bài viết Tổng giám đốc người nước ngoài kêu cứu cho cấp phó trên Thanh Niên. Đến ngày 14.6.2015, bà Trang được thay thế biện pháp tạm giam bằng bảo lãnh.

Sau đó, CQĐT và Viện KSND tỉnh Bình Dương khởi tố, truy tố bà Trang về tội “trốn thuế” và “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản“. Theo công an, Công ty USPC khai sai nguồn gốc lô hàng cá ngừ khi nhập khẩu để trốn thuế 470 triệu đồng và cố ý chiếm đoạt lô hàng, giá trị hơn 3 tỉ đồng của Tuna Fish Bình Định.

Ngược lại, quá trình tố tụng vụ án, bà Trang và phía USPC trình bày ngày 28.7.2012, USPC và Tuna Fish Bình Định ký hợp đồng gia công đông lạnh cá ngừ; ngày 25.9.2012, USPC và Tuna Fish Bình Định ký hợp đồng ủy thác xuất khẩu, trong đó USPC sẽ xuất khẩu ủy thác và bán hộ lô hàng cho Tuna Fish Bình Định và sẽ chuyển khoản thanh toán sau khi bên mua hàng ở Mỹ thanh toán.

10 năm, tiếp tục kêu cứu bị ‘hình sự hóa quan hệ kinh tế’

Sau 10 năm, ông Byron Scott McLaughlin (71 tuổi, quốc tịch Mỹ) vẫn tiếp tục kêu oan

ẢNH: PHAN THƯƠNG

Tuy nhiên, USPC cho biết quá trình bán hộ lô hàng, tháng 10.2012, bà Trịnh Thị Ngọc Sâm (Chủ tịch HĐQT Tuna Fish Bình Định) thay đổi ý định và yêu cầu USPC phải thanh toán tiền mặt. USPC không đồng ý và cho biết phải thực hiện theo hợp đồng. Từ đó, Tuna Fish Bình Định yêu cầu trả lại lô hàng, nếu không sẽ tố cáo USPC.

Sau đó, USPC yêu cầu Tuna Fish Bình Định xuất hóa đơn để USPC thanh toán, nhưng phía bà Sâm không đồng ý và tiếp tục tố cáo USPC có hành vi chiếm đoạt lô hàng trên khi cho rằng hàng trả về không phải là lô hàng của công ty bà, đồng thời bà Sâm cũng không nhận hàng.

Tháng 4.2017, khi TAND tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm, bà Trang và lãnh đạo USPC – ông Byron khẳng định khi lô hàng tái nhập trở về, Chi cục Thú y khu vực VI tại TP.HCM kiểm dịch, cấp giấy chứng nhận kiểm dịch số 003269 ngày 22.11.2012 (bút lục 349) xác nhận lô hàng nhập khẩu trùng khớp với lô hàng mà USPC đã khai báo trên tờ khai xuất khẩu 2619 ngày 6.10.2012 (thời điểm xuất khẩu lô hàng đi – PV).

Sau đó, TAND tỉnh Bình Dương trả hồ sơ, yêu cầu Viện KSND điều tra bổ sung bà Trang có hưởng lợi hay trốn thuế từ lô hàng hay không; làm rõ các hợp đồng gia công, hợp đồng ủy thác xuất khẩu giữa USPC và Tuna Fish Bình Định để làm cơ sở xác định tội danh “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” của bị cáo Trang như cáo trạng cáo buộc; căn cứ xác định hàng xuất khẩu và tái nhập khác nhau; theo hồ sơ, có thỏa thuận 3 bên về trả hàng (khách hàng nước ngoài với USPC) nhưng CQĐT chưa làm rõ…

Ngày 12.7.2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương khởi tố ông Byron về tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “trốn thuế” cùng với bà Trang. Ngày 30.10.2024, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương đình chỉ điều tra vụ án “trốn thuế” do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngày 27.2.2025, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương ban hành kết luận điều tra bổ sung (KLĐTBS), đề nghị Viện KSND tỉnh truy tố bà Trang, ông Byron tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Không có ý thức trả tiền hay tranh chấp phương thức thanh toán?

Theo KLĐTBS, bằng hình thức thỏa thuận hợp đồng gia công, sau khi nhận được nguyên liệu và thực hiện xong gia công, chủ tài sản (Công ty Vinh Sâm) nhiều lần liên hệ để nhận tài sản nhưng USPC viện nhiều lý do không trả lại hàng. Sau đó, USPC bán hàng cho khách hàng của USPC tại Mỹ, theo hợp đồng ký kết ngày 21.8.2012, và đã nhận tiền ngày 23.8.2012 – thời điểm trước khi thỏa thuận với bà Sâm về việc xuất khẩu ủy thác lô hàng.

Nhận được KLĐTBS, bà Trang và ông Byron tiếp tục khiếu nại nội dung kết luận không đúng sự thật khách quan và tài liệu, hồ sơ vụ án.

Cụ thể, USPC không có hợp đồng gia công với Công ty Vinh Sâm liên quan đến lô hàng 11.062,04 kg cá ngừ đông lạnh. Lô hàng này tồn tại trên bản hợp đồng gia công USPC ký với Tuna Fist Bình Định (cũng là công ty của vợ chồng bà Sâm).

Việc hợp tác này thể hiện rõ trong các email các bên trao đổi qua lại tại thời điểm năm 2012. Bên cạnh đó, lãnh đạo USPC cho rằng cơ quan tố tụng tại tỉnh Bình Dương đang “hình sự hóa” quan hệ kinh tế giữa các bên, dẫn đến kết tội oan cho bà Trang và ông Byron. Đồng thời, sau 8 năm tòa trả hồ sơ, KLĐTBS vẫn chưa giải quyết những mâu thuẫn mà tòa đã từng yêu cầu làm rõ.

Về nội dung KLĐTBS cho rằng USPC bán lô hàng cho khách hàng tại Mỹ trước thời điểm thỏa thuận với bà Sâm về việc xuất khẩu ủy thác lô hàng, bà Trang khẳng định: Ngày 21.8.2012, USPC ký hợp đồng với khách hàng ở Mỹ (bút lục 1713) không có phần hàng ủy thác xuất khẩu của Tuna Fish Bình Định.

Sau khi Tuna Fish Bình Định đồng ý ủy thác để USPC xuất khẩu lô hàng thì Công ty USPC làm mới lại hợp đồng (bút lục 1350) gồm cả phần hàng của Tuna Fish Bình Định.

Khi xuất khẩu hàng ngày 6.10.2012, USPC đã tách riêng 2 hợp đồng để thể hiện lô hàng xuất ủy thác. “Nếu gian dối Công ty USPC đã không tách riêng hai bộ chứng từ và đã không khai tên chủ hàng ủy thác là Tuna Fish Bình Định”, bà Trang nói.

Về nội dung của KLĐTBS cho rằng USPC đã nhận tiền của khách hàng tại Mỹ vào ngày 23.8.2012, nhưng không thanh toán lại cho Tuna Fish Bình Định, bà Trang cho hay khoản tiền USPC nhận là tiền khách hàng tạm ứng cho USPC mua nguyên liệu sản xuất, không phải tiền thanh toán cho toàn bộ lô hàng. Và đây là tiền tạm ứng cho phần hàng hóa của USPC chào bán cho khách hàng, không liên quan lô hàng của Tuna Fish Bình Định.

Luật sư Vũ Thị Xuân Nhuệ (nguyên kiểm sát viên Viện KSND TP.HCM) cho rằng từ những tình tiết trong vụ án cho thấy đây là tranh chấp hợp đồng kinh tế liên quan đến thanh toán tiền và hàng hóa giữa USPC và Tuna Fish Bình Định. Tại thời điểm phát sinh tranh chấp, hợp đồng kinh tế giữa các bên vẫn còn hiệu lực và thời hiệu khởi kiện. Nếu các bên không thỏa thuận được thì khởi kiện ra tòa án giải quyết.

Dấu hiệu cơ bản cấu thành tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” trong vụ án là người phạm tội “bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả”. Tuy nhiên, với những tài liệu hồ sơ vụ án thì cơ quan tiến hành chưa làm rõ được ý thức cố tình chiếm đoạt tiền hoặc tài sản của Tuna Fish Bình Định.

Về nội dung này, theo hồ sơ vụ án, ngày 23.1.2015, USPC (đại diện là ông Byron) đã nộp hơn 3,1 tỉ đồng vào tài khoản của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Dương. Trong đó, nội dung ghi rõ “đề nghị Công ty Tuna Fish Bình Định phải cung cấp hóa đơn, thanh lý hợp đồng ủy thác xuất khẩu, thanh toán tiền gia công” cho USPC.

Đồng thời tại thời điểm tái nhập lô hàng, giá trị lô hàng là hơn 151.000 USD (chưa bao gồm thuế VAT và thuế nhập khẩu). Điều này cho thấy USPC luôn thiện chí trả hàng hoặc thanh toán tiền cho Tuna Fish Bình Định, nhưng với điều kiện Tuna Fish Bình Định phải xuất hóa đơn theo quy định và giải quyết những tồn đọng phát sinh theo hợp đồng.