80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới

80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới

bởi

trong

Trong mọi giai đoạn lịch sử, từ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đến thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, pháp luật và chính sách trong các lĩnh vực này luôn đóng vai trò vừa là công cụ điều tiết xã hội, vừa là động lực phát triển con người, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội.

Thể chế trong các lĩnh vực lao động, việc làm, người có công với cách mạng và bình đẳng giới không chỉ phản ánh những thay đổi sâu sắc về mô hình phát triển và quản trị nhà nước, mà còn là “hàn thử biểu” thể hiện mức độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới
80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới - 2

Những cải cách thể chế lớn về pháp luật lao động, chính sách việc làm, an sinh xã hội, ưu đãi người có công với cách mạng hay thúc đẩy bình đẳng giới không chỉ phục vụ mục tiêu kinh tế, mà trước hết là để bảo đảm quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.

Trong bối cảnh mới, khi Việt Nam đang bước vào thời kỳ dân số già, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, chuyển đổi số quốc gia và hội nhập toàn cầu sâu rộng, yêu cầu đặt ra cho thể chế lao động – xã hội càng trở nên cấp thiết và toàn diện hơn bao giờ hết. Sự sáp nhập tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và “sắp xếp lại giang sơn” vào năm 2025, cũng đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy, cách thức hoạch định và tổ chức thực thi chính sách, bảo đảm đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với cam kết quốc tế.

Cuộc “sắp xếp lại giang sơn” tạo cơ hội hình thành thể chế mới

Sau 80 năm xây dựng và hoàn thiện thể chế trong các lĩnh vực lao động, việc làm, người có công với cách mạng và bình đẳng giới, hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ, toàn diện.

Từ những văn bản ban đầu như Sắc lệnh số 29/SL năm 1947, hệ thống thể chế đã phát triển mạnh với các đạo luật nền tảng như Bộ luật Lao động 1994, 2012, 2019, Luật Việc làm 2013, Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, Luật đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020, Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng 2020, Luật Bình đẳng giới 2006, cùng hàng trăm nghị định, thông tư hướng dẫn.

Thể chế đã bao trùm gần như toàn bộ các lĩnh vực bao gồm quan hệ lao động, việc làm, bảo hiểm, an toàn lao động, chính sách người có công, bình đẳng giới, phòng chống phân biệt đối xử.

80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới - 3
80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới - 4

Không những vậy, thể chế cũng ngày càng phù hợp với tiến trình phát triển đất nước và hội nhập. Tiêu biểu như trong giai đoạn 1945-1985, thể chế phục vụ chiến tranh, chăm lo người có công, ổn định lao động tập thể trong kinh tế kế hoạch hóa; giai đoạn đổi mới 1986-2000, điều chỉnh mạnh mẽ theo cơ chế thị trường, xuất hiện pháp lệnh, luật đầu tiên về quan hệ lao động, việc làm, ưu đãi người có công.

Từ năm 2001 đến nay, thể chế từng bước hài hòa với chuẩn mực quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới – WTO (2007), ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và tái gia nhập Tổ chức lao động quốc tế (ILO).

Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế suốt 80 năm qua đã tác động tích cực đến phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Thể chế lao động đóng vai trò then chốt trong ổn định thị trường lao động, phát triển nguồn nhân lực, thu hút đầu tư nước ngoài, hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp, bảo đảm an sinh xã hội.

Chính sách người có công với cách mạng thể hiện truyền thống đạo lý và công bằng xã hội, ngày càng bao phủ rộng hơn, minh bạch hơn.

Đặc biệt, giai đoạn 2024-2025 được cho là giai đoạn cải cách mạnh mẽ gắn với hiện đại hóa tổ chức bộ máy nhà nước.

Giai đoạn này chứng kiến nhiều cải cách hành chính – thể chế lớn, trong đó có việc sáp nhập Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với Bộ Nội vụ từ tháng 3/2025, tạo cơ hội hình thành thiết kế thể chế gắn kết hơn giữa quản lý công vụ, tổ chức bộ máy và thị trường lao động; cùng với đó ở cấp tỉnh là Sở Nội vụ tham mưu cho UBND cấp tỉnh.

Ngoài ra, việc “sắp xếp lại giang sơn” với việc bỏ chính quyền cấp huyện và sắp xếp lại tỉnh, thành phố trên cả nước, tạo cơ hội hình thành thể chế quản lý mới về nội vụ – lao động – người có công. Ở giai đoạn này, thời kỳ cải cách mạnh mẽ còn được thể hiện qua việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 và Luật Việc làm năm 2025; Luật Thanh tra bãi bỏ Thanh tra lao động thuộc Bộ Nội vụ và Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Hướng đến giai đoạn điều tiết phát triển thị trường

Năm 2035, thể chế thị trường lao động Việt Nam dự kiến sẽ vượt qua giai đoạn “pháp luật lao động bảo vệ thuần túy” để bước vào giai đoạn “điều tiết phát triển thị trường”, bảo đảm cạnh tranh công bằng, năng lực thích ứng và bảo hộ thông minh. Đây là nền tảng cốt lõi để hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao, dựa trên nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững.

Để hiện đại hóa thể chế thị trường lao động Việt Nam đến năm 2035, cần xây dựng một hệ thống thể chế vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa tiệm cận các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là trong bối cảnh già hóa dân số, chuyển đổi số và hội nhập thương mại sâu rộng.

80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới - 5
80 năm hoàn thiện thể chế lao động, việc làm, người có công, bình đẳng giới - 6

Trong năm 2026, cần xem xét đến các nhóm giải pháp sau:

– Tổng kết 5 năm thi hành Bộ luật Lao động 2019, chuẩn bị sửa đổi theo hướng tiếp cận nghề nghiệp xanh, việc làm linh hoạt, tăng cường quyền tự do công đoàn và thiết lập thương lượng ngành.

– Tổng kết thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2020, đề xuất xây dựng Luật Người có công.

– Đề xuất sửa đổi Luật Bình đẳng giới năm 2006, tích hợp các chuẩn mực quốc tế mới về quyền phụ nữ và công bằng giới.

– Tập trung xây dựng và hình thành cơ sở dữ liệu số thị trường lao động theo thời gian thực, kết nối các sàn việc làm, an sinh, đào tạo nghề và hỗ trợ người yếu thế; cho phép dự báo nhu cầu – cung lao động theo từng ngành, địa phương, trình độ, hỗ trợ hoạch định chính sách linh hoạt, theo “real-time” (thời gian thực). Tất cả quy trình đăng ký việc làm, quản lý hợp đồng, bảo hiểm xã hội, tranh chấp, đào tạo lại… đều chuyển dịch sang nền tảng số hóa, tạo “hồ sơ năng lực điện tử” cho mỗi người lao động.

– Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy quản lý lĩnh vực lao động, người có công với cách mạng và bình đẳng giới sau sáp nhập, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và liên thông chính sách. Theo đó, các đơn vị cấp bộ cần được cơ cấu theo hướng chính sách – quản lý – thanh tra – dữ liệu, chia theo nhóm mục tiêu (việc làm, người có công, giới); cấp sở tại tỉnh thống nhất 1 hoặc 2 phòng phụ trách toàn bộ chuỗi chính sách từ lao động (tiêu chuẩn lao động) đến việc làm và thị trường lao động; 1 phòng phụ trách về an sinh xã hội (từ bảo hiểm xã hội đến người có công với cách mạng và bình đẳng giới); thống nhất 1 phòng phụ trách toàn bộ chuỗi tổ chức thực hiện chính sách lĩnh vực lao động, việc làm, người có công và bình đẳng giới.

– Ứng dụng công nghệ số vào trong mọi hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước: Mọi bộ phận có quyền khai thác và nhập liệu vào hệ thống dữ liệu dùng chung về dân cư, bảo hiểm xã hội, nghề nghiệp, và an sinh.

* Tài liệu: Tham luận “Xây dựng và hoàn thiện thể chế lĩnh vực lao động, việc làm, người có công và bình đẳng giới” của TS Mai Đức Thiện, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế, tại Hội thảo khoa học “Lịch sử, truyền thống và định hướng phát triển của Bộ Nội vụ giai đoạn 2025-2045”, Kỷ yếu 80 năm lịch sử Bộ Nội vụ.