Nhịp tim nhanh, chậm thất thường là bệnh gì?

Nhịp tim nhanh, chậm thất thường là bệnh gì?

bởi

trong
Nhịp tim nhanh, chậm thất thường là bệnh gì?

Nhịp tim của tôi lúc nhanh, lúc chậm, thấp khoảng 54 nhịp/phút, lúc lại lên hơn 130. Khi nhịp tim chậm, tôi thường cảm thấy choáng, mệt.

Tình trạng này có đáng lo không và xử trí thế nào? (Nguyễn Ngọc Hoa, 62 tuổi, Bắc Ninh)

Trả lời:

Nhịp tim của người trưởng thành bình thường dao động khoảng 60-100 nhịp/phút. Nhịp tim dưới 60 là chậm, trên 100 là nhanh. Tuy nhiên, nhịp tim cũng có thể thay đổi theo độ tuổi, thể trạng, mức độ vận động, cảm xúc, giấc ngủ hoặc do tác động của một số thuốc mà không phải bệnh lý.

Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến nhịp tim như khi ngủ sâu, nhịp tim tự nhiên giảm 10-20% so với ban ngày. Ở người tập thể dục thường xuyên hay vận động viên, nhịp tim lúc nghỉ có thể xuống 50-60 nhịp/phút mà vẫn bình thường. Khi căng thẳng, lo âu, uống cà phê, rượu hoặc sau ăn nhiều, nhịp tim có thể tạm thời tăng lên trên 100 nhịp/phút.

Trường hợp của bạn, nhịp tim dao động thất thường, khi thấp xuống 54 nhịp/phút, khi lại tăng lên hơn 130 nhịp/phút, kèm theo cảm giác mệt và choáng có khả năng là triệu chứng của hội chứng nút xoang bệnh lý hoặc một số vấn đề rối loạn nhịp tim khác. Đây là biểu hiện bất thường của bệnh lý tim mạch, đặc biệt là người trên 60 tuổi.

Hội chứng nút xoang bệnh lý là tình trạng rối loạn hoạt động của nút xoang – bộ phận điều khiển nhịp tim tự nhiên của cơ thể. Khi mắc hội chứng này, tim có thể đập quá chậm, quá nhanh hoặc xen kẽ cả hai, gây ra nhịp tim không đều. Người bệnh thường chóng mặt, mệt mỏi, bị đánh trống ngực, thậm chí ngất xỉu do tim không bơm đủ máu đi nuôi cơ thể. Bệnh thường gặp ở người từ 60 tuổi trở lên hoặc người mắc bệnh tim mạch nền.

Block nhĩ thất (nghẽn dẫn truyền tín hiệu từ tâm nhĩ xuống tâm thất) là tình trạng dẫn truyền xung động từ tâm nhĩ xuống tâm thất bị chậm lại hoặc ngừng trệ. Block nhĩ thất được chia làm ba mức độ tùy thuộc vào mức độ tắc nghẽn.

Rối loạn dẫn truyền xung điện từ nhĩ xuống thất chia làm ba mức độ. Độ I có khoảng PR kéo dài trên điện tâm đồ, thường lành tính. Khoảng PR thể hiện thời gian dẫn truyền xung điện từ tâm nhĩ xuống tâm thất, thông qua nút nhĩ thất. Độ II gồm Mobitz type I (Wenckebach) hoặc Mobitz type II (bỏ nhịp). Độ III (Block nhĩ – thất hoàn toàn) là tình trạng nhĩ và thất đập độc lập, nguy cơ ngừng tim cao.

Ngoại tâm thu là tim xuất hiện những nhịp đập sớm bất thường, khác với do nút xoang điều khiển. Những nhịp sớm này có thể xuất phát từ tâm nhĩ (gọi là ngoại tâm thu nhĩ) hoặc tâm thất (ngoại tâm thu thất). Người bệnh thường cảm nhận được tim hẫng một nhịp, rồi đập bù mạnh, kèm theo cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực hoặc choáng nhẹ. Ngoại tâm thu xảy ra ở người khỏe mạnh khi căng thẳng, mất ngủ, dùng nhiều cafe, rượu bia hoặc do rối loạn điện giải. Đa số các trường hợp ít, thưa là lành tính, không nguy hiểm. Tuy nhiên, nếu ngoại tâm thu xảy ra dày đặc, từng cơn hoặc trên nền bệnh tim thực thể có thể dẫn đến các rối loạn nhịp nguy hiểm hơn như nhịp nhanh thất hay rung thất.

Rối loạn dẫn truyền là tình trạng tín hiệu điện điều khiển nhịp tim truyền đi chậm, không đều hoặc bị ngắt quãng giữa các buồng tim, khiến , có thể quá chậm, quá nhanh hoặc rối loạn. Tình trạng này thường gặp ở người có bệnh tim mạch nền như bệnh mạch vành, viêm cơ tim, suy tim hoặc do biến chứng sau phẫu thuật tim. Một số loại thuốc điều trị tim mạch, huyết áp, loạn nhịp hoặc thuốc an thần, chống trầm cảm cũng có thể gây rối loạn dẫn truyền như một tác dụng phụ.

Rung nhĩ là tình trạng rối loạn nhịp nhanh kịch phát hoặc dai dẳng, kèm dao động nhịp thất nhanh – chậm thất thường. Nguy cơ cao hình thành huyết khối và đột quỵ.

Nếu các rối loạn nhịp bệnh lý không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như ngất xỉu đột ngột, đột quỵ do huyết khối, suy tim hoặc thậm chí ngừng tim… Khi xuất hiện biểu hiện như ngất, đau ngực, khó thở đột ngột, tim đập quá nhanh trên 140 lần/phút hoặc quá chậm dưới 40 lần/phút kèm mệt lả, người bệnh cần nhập viện ngay để được xử trí kịp thời, tránh nguy cơ đột tử.

Để phòng ngừa các biến chứng nguy hiểm do rối loạn nhịp tim, bạn nên đến khám tại chuyên khoa tim mạch. Bác sĩ có thể chỉ định các xét nghiệm như điện tâm đồ 12 chuyển đạo, Holter điện tâm đồ 24-48 giờ hoặc máy ghi sự kiện nếu triệu chứng xuất hiện thưa, siêu âm tim và các xét nghiệm máu (TSH, điện giải đồ…)

Phương pháp điều trị tùy thuộc vào tình trạng cụ thể. Với hội chứng nút xoang hoặc block nhĩ thất độ cao, máy tạo nhịp vĩnh viễn là lựa chọn tối ưu. Trường hợp rung nhĩ, bác sĩ kiểm soát nhịp thất bằng thuốc. Người bị ngoại tâm thu thất dày cần điều trị bệnh tim nền và cân nhắc triệt đốt ổ loạn nhịp nếu cần thiết.

ThS.BS Phùng Văn Thao
Khoa Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội

Độc giả đặt câu hỏi bệnh tim mạch để bác sĩ giải đáp