Việt Nam nhập khẩu cau và dừa chế biến tăng vọt

Việt Nam nhập khẩu cau và dừa chế biến tăng vọt

bởi

trong

Dù là vùng sản xuất lớn, Việt Nam vẫn tăng mạnh nhập khẩu cau và dừa chế biến, dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng trong nhóm quả 4 tháng đầu năm.

Bốn tháng đầu năm, Việt Nam chi 517 triệu USD để nhập khẩu các loại quả và quả hạch đã qua chế biến từ nhiều quốc gia, tăng 39% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, hạt dẻ cười, táo, hạnh nhân, nho và quýt là những mặt hàng được nhập nhiều nhất. Riêng hạt dẻ cười, kim ngạch nhập khẩu đạt 124 triệu USD, tăng gấp đôi cùng kỳ. Tiếp đến là táo với 87 triệu USD, hạnh nhân 53 triệu USD và nho 52 triệu USD, tăng từ 2 đến 40%.

Ngoài các loại trên, năm nay có hai mặt hàng có mức tăng đột biến là cau và dừa chế biến – những sản phẩm mà Việt Nam vốn có lợi thế về sản lượng. Trong 4 tháng đầu năm, Việt Nam đã chi 11,3 triệu USD để nhập khẩu cau chế biến, tăng 14 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Dừa chế biến cũng ghi nhận mức tăng 11,3 lần, đạt 7,2 triệu USD.





Việt Nam nhập khẩu cau và dừa chế biến tăng vọt

Kẹo cau được bán trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Shopee

Lý giải tình trạng này, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam Đặng Phúc Nguyên, cho rằng nhu cầu nhập khẩu sản phẩm chế biến từ EU tăng mạnh, trong khi nguyên liệu trong nước không đủ đáp ứng. Thêm vào đó, giá dừa nội địa tăng cao do nguồn cung khan hiếm khiến doanh nghiệp phải tìm thêm nguồn từ Philippines, Indonesia và Sri Lanka. Hiện, Việt Nam nhập nước dừa, cơm dừa, dừa khô để chế biến sữa dừa, than dừa xuất khẩu.

Với cau chế biến, ông Nguyên cho hay Việt Nam chủ yếu nhập kẹo cau từ Trung Quốc. Dù có vùng trồng lớn, Việt Nam chưa có nhà máy chế biến cau quy mô lớn nên vẫn xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô. Mặt hàng kẹo cau hiện phục vụ phần lớn cho người Trung Quốc sống tại Việt Nam hoặc được mua làm quà biếu.

Tại Việt Nam, cây cau được trồng ở nhiều nơi, trong đó Quảng Ngãi là thủ phủ với diện tích hàng nghìn ha, trồng tập trung ở các xã Sơn Dung, Sơn Long, Sơn Mùa… Khoảng 600 hộ dân trồng từ 1.000 cây trở lên, coi đây là nguồn thu nhập ổn định.

Còn với cây dừa, Việt Nam có khoảng 200.000 ha, sản lượng ước đạt 2 triệu tấn mỗi năm. Một phần ba diện tích đạt chuẩn hữu cơ theo yêu cầu của Mỹ và EU. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trồng dừa lớn nhất nước, chiếm 88% diện tích. Ngoài Bến Tre, các địa phương có diện tích dừa lớn còn có Trà Vinh, Tiền Giang, Vĩnh Long.

Ngành dừa trong nước có tiềm năng lớn, không chỉ cung ứng nguyên liệu mà còn có thể tham gia thị trường tín chỉ carbon. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu và sâu bệnh khiến nguồn cung tại Việt Nam, Philippines, Thái Lan giảm mạnh, đẩy giá dừa lên cao kỷ lục. Tại Đồng bằng sông Cửu Long, dừa tươi tại vườn được thu mua với giá 180.000-210.000 đồng một chục (12 quả). Sau khi cộng chi phí vận chuyển, phân loại, giá bán lẻ có thể lên tới 25.000 đồng một trái loại 1, còn loại 2 dao động 140.000-170.000 đồng một chục.

Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu dừa và sản phẩm từ dừa của Việt Nam đạt gần 1,1 tỷ USD, trong đó dừa tươi đóng góp 390 triệu USD. Sản phẩm dừa Việt đã có mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, với Mỹ và Trung Quốc là hai thị trường lớn nhất.

Từ tháng 8/2023, khi Mỹ chính thức mở cửa cho dừa Việt Nam, lượng xuất khẩu tăng gấp 11 lần chỉ sau chưa đầy một năm. Riêng 2 tháng đầu năm nay, xuất khẩu sang Mỹ tăng 46% so với cùng kỳ.

Trung Quốc cũng nhanh chóng trở thành thị trường trọng điểm sau khi hai bên ký nghị định thư xuất khẩu chính ngạch vào tháng 8/2024. Nước này tiêu thụ khoảng 4 tỷ quả dừa mỗi năm, trong đó 2,6 tỷ quả là dừa tươi. Việt Nam hiện chiếm 20% tổng kim ngạch nhập khẩu dừa của Trung Quốc và là nhà cung cấp lớn thứ ba.

Thi Hà