Công – tội AI trong truyền thông

Công – tội AI trong truyền thông

bởi

trong

Chỉ trong thời gian ngắn, AI đang ảnh hưởng sâu rộng đến ngành truyền thông giữa thời đại thông tin bùng nổ.

Từ công…

Trong đó, mạng xã hội là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất từ AI. Từ thuật toán News Feed của Facebook, Discover của Instagram đến For You Page của TikTok, AI đóng vai trò trung tâm trong việc định hình trải nghiệm người dùng. Các thuật toán này không ngừng học hỏi hành vi tương tác của người dùng (lượt thích, bình luận, chia sẻ, thời gian xem) để hiển thị nội dung phù hợp nhất, tối đa hóa thời gian người dùng dành cho nền tảng. Điều này làm nên một vòng lặp khuyến khích người dùng tạo ra và tiêu thụ nội dung, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng mạng xã hội.

AI cũng là xương sống trong việc quản lý nội dung và kiểm duyệt trên mạng xã hội. Các hệ thống AI có khả năng phát hiện và gỡ bỏ những nội dung vi phạm chính sách của nền tảng một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều so với việc kiểm duyệt thủ công. Tuy nhiên, sự phụ thuộc vào AI trong kiểm duyệt cũng đặt ra câu hỏi về tính công bằng, khả năng nhận diện sắc thái văn hóa và nguy cơ kiểm duyệt quá mức hoặc thiếu sót.

Công – tội AI trong truyền thông

AI ngày càng đóng vai trò trung tâm trong trải nghiệm tin tức của người dùng

Ảnh: Phát Tiến tạo bởi AI

Đối với lĩnh vực báo chí, một trong những tác động rõ nét nhất của AI về truyền thông và tin tức là khả năng tối ưu hóa quá trình sản xuất và phân phối nội dung. Hãng thông tấn AP (Mỹ) đã và đang sử dụng AI để tự động tạo ra hàng ngàn bản tin mỗi năm.

Các công cụ AI có thể tự động hóa việc thu thập, phân tích và tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, giúp các nhà báo và biên tập viên tiết kiệm thời gian và tập trung vào các công việc chuyên môn hơn. Chẳng hạn, AI có thể tự động viết các báo cáo tài chính, thể thao hoặc dự báo thời tiết dựa trên dữ liệu có sẵn. Hay các nhà báo có thể sử dụng các ứng dụng tích hợp AI như Canva để dễ dàng thực hiện các biểu đồ, thông tin minh họa mà không đòi hỏi phải có các kỹ năng sử dụng các ứng dụng đồ họa chuyên nghiệp như trước đây. Nhờ đó, sản phẩm báo chí có được tính tương tác cao, nội dung minh họa phong phú hơn để thu hút bạn đọc và tăng trải nghiệm đọc tin tức, nội dung. Thậm chí, nhiều người không phải là nhà báo chuyên nghiệp giờ đây cũng có thể hoàn thiện các sản phẩm tương tự báo chí.

Bên cạnh đó, AI còn cách mạng hóa việc phân phối tin tức. Các thuật toán học máy có thể phân tích hành vi, sở thích và lịch sử đọc của người dùng để đề xuất các bài báo, video hoặc podcast phù hợp. Điều này giúp các báo tăng cường mức độ tương tác, giữ chân độc giả. Các nền tảng tin tức trực tuyến thì sử dụng AI để cá nhân hóa trang chủ, hiển thị những nội dung mà người dùng có nhiều khả năng quan tâm nhất.

… đến tội

Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn nhất mà kỷ nguyên thông tin và AI mang lại là sự bùng nổ của tin giả (fake news) và thông tin sai lệch. Các ứng dụng AI tạo sinh có thể được sử dụng để tạo ra tin giả một cách tinh vi, từ văn bản được tạo tự động đến hình ảnh và video giả sâu. Điều này khiến việc phân biệt thông tin thật giả trở nên khó khăn hơn bao giờ hết, đe dọa niềm tin của công chúng vào các phương tiện truyền thông và gây ra những hậu quả nghiêm trọng về xã hội, chính trị. Thực tế, tin giả và thông tin sai lệch đang hoành hành trên mạng xã hội khiến nhiều người không thể phân biệt. Điều này khiến thông tin trên mạng xã hội ngày càng bị thao túng nhiều hơn.

 - Ảnh 2.

Về mặt tiêu cực, AI có thể khiến tin giả ngày càng phổ biến hơn

Ảnh: Phát Tiến tạo bởi AI

Một nghiên cứu của RAND Corporation (công ty tư vấn và nghiên cứu chính sách có trụ sở tại Mỹ) đánh giá việc thao túng thông tin trên mạng xã hội đã chuyển sang giai đoạn thứ ba bắt nguồn từ những ứng dụng từ AI.

Theo RAND Corporation, ở giai đoạn thứ nhất, việc thao túng thông tin trên mạng xã hội còn khá thô sơ, bằng cách tạo ra các trí tuệ nhân tạo dạng robot ảo (thường được gọi là bot) đăng ký tài khoản trên mạng xã hội rồi lan truyền thông tin bằng các văn bản với một số từ khóa (keyword) do người điều khiển đưa ra. Từ đó, các bot phát tán các câu bình luận, nội dung dựa trên những từ khóa được chọn lọc, nhưng lại không có khả năng tương tác mở rộng thêm với người dùng khác. Cách thức này nhanh chóng lỗi thời do dễ bị người khác nhận ra.

Tiên tiến hơn, ở giai đoạn thứ hai, với công nghệ phức tạp, các bot có khả năng giống con người hơn vì có thể thu thập dữ liệu trên internet để thiết lập nội dung và hồ sơ tài khoản mạng xã hội. Các bot cũng có thể định kỳ đăng tải bài trên mạng xã hội để tạo tương tác ảo. Bên cạnh đó, AI cho phép nâng cao nội dung và cách thức nhắn tin để chia sẻ thông tin sai lệch tinh vi hơn. Điển hình là kết hợp chia sẻ các “video giả sâu” – những video có nội dung giả nhân vật phát biểu những thông tin sai lệch nhưng có âm điệu, giọng nói khá gần với nhân vật thật ngoài đời. Thêm vào đó, tin giả nhưng độ xác thực ngày càng tăng của các tài khoản chia sẻ (bot thông minh hơn thế hệ 1) và việc tổng hợp được âm thanh, video hoặc hình ảnh giúp đánh lừa người khác dễ dàng hơn. Điển hình năm 2022, nhiều bot trên mạng xã hội đã chia sẻ video giả mạo Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tuyên bố đầu hàng trước Nga.

 - Ảnh 3.

Ảnh: Phát Tiến tạo bởi AI

Tuy nhiên, ở giai đoạn thứ hai, khả năng tương tác trực tiếp của bot với người khác vẫn còn hạn chế.

Và chính AI phát triển đã mở ra giai đoạn thứ ba hiện nay với mối nguy đáng lo hơn. Bước tiến quan trọng ở đây nằm ở tính hợp lý của người đưa tin hơn là thông điệp.

Cụ thể là khả năng của một mạng bot khổng lồ trông giống và hoạt động như con người, đồng thời tạo ra văn bản, hình ảnh cũng như video và âm thanh hỗ trợ tính xác thực cho thông tin của bot lan truyền. Các bot có thể quyết định tự chủ hơn. Đó là khi được giao một nhiệm vụ, bot có thể tự lập kế hoạch cho các hành động, thực hiện các hành động đó, sửa đổi và quyết định khi nào nhiệm vụ được hoàn thành. Ví dụ, các bot có thể thu thập thông tin để nắm bắt đặc điểm đối tượng nhằm tương tác trực tiếp như nhắn tin trao đổi ngắn, viết bình luận. Bằng cách học sâu, bot sẽ ngày càng thông minh hơn nên quá trình tương tác mạng xã hội với người thật, nhiều người đang giao tiếp với bot nghĩ rằng đó là một con người có thật.

Bên cạnh đó, chỉ bằng vài câu lệnh đúng, AI tạo sinh giúp rút ngắn thời gian và tiết kiệm công sức khi tạo ra các nội dung tin giả (ví dụ như video giả sâu) có độ chân thực cao. Kết hợp thêm mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) sẽ giúp nhân rộng ra nhiều ngôn ngữ để hướng đến nhiều đối tượng mang đặc tính quốc gia, dân tộc, quan điểm khác nhau. Thông qua LLM kết hợp cùng mô hình tự học sâu của AI với một nguồn dữ liệu khổng lồ được tập hợp, các bot ngày càng thông minh và trao đổi thông tin giống người hơn, thậm chí còn biết dùng cả “tiếng lóng” hay các ngôn ngữ địa phương phù hợp với đối tượng mục tiêu để tương tác. Qua đó, nhiều người có thể bị thao túng thông tin.

Cứ như thế, tin giả lan truyền mạnh mẽ với mức độ “tin cậy” cao khiến nhiều người bị thao túng. Trong bối cảnh như vậy, để kiểm chứng tính xác thực cần phải tìm đến những nguồn thông tin chính thức, các cơ quan báo chí chính thống với quy trình nghiệp vụ bài bản.

(*) Bài viết có kết hợp sử dụng AI trong quá trình thực hiện.

Nhận thức bị “đóng nhốt”

Một vấn đề khác của ảnh hưởng tiêu cực từ sự phát triển của AI đối với mạng xã hội là nhiều người dễ bị “đóng nhốt” về nhận thức, bảo thủ.

Cụ thể, các mạng xã hội đang cá nhân hóa trải nghiệm bằng cách phân phối những thông tin mà người dùng quan tâm dựa trên sự phân tích của AI. Cứ như thế, các “bong bóng lọc” (filter bubble) hoặc hiệu ứng “hồi vọng” (echo chamber) khiến cho các mạng xã hội, kênh thông tin chỉ phân phối đến người dùng về những thông tin củng cố quan điểm hiện có của người đó. Cứ như thế, dù dòng chảy thông tin khổng lồ, nhưng cuối cùng người dùng chỉ tiếp nhận thông tin theo 1 định hướng.

Cho nên, nhiều người thực tế đang bị hạn chế khả năng tiếp cận đa chiều và khách quan, dẫn đến nhận thức bị “đóng nhốt” và tính bảo thủ ngày càng cao.

AI ảnh hưởng thế nào đến báo chí ở thế giới phương Nam ?

Quỹ Thomson Reuters (TRF) mới đây công bố kết quả khảo sát với hơn 200 nhà báo từ hơn 70 quốc gia ở thế giới phương Nam về sự ảnh hưởng của AI với báo chí.

Thế giới phương Nam không đồng nhất với bán cầu nam về địa lý, mà là tập hợp các quốc gia ở châu Phi, khu vực Mỹ Latin và Caribe, châu Á (không bao gồm Israel, Nhật Bản và Hàn Quốc) và châu Úc (không bao gồm Úc và New Zealand). Trái ngược với thế giới phương Bắc bao gồm các quốc gia phát triển, thế giới phương Nam là phần còn lại của thế giới.

Khảo sát trên của TRF đưa ra một số kết quả sau về tác động của AI đối với báo chí ở thế giới phương Nam.

1. Việc áp dụng AI phổ biến, nhưng không đồng đều

Cuộc khảo sát cho thấy một “sự lạc quan thận trọng” đối với AI, khoảng 81,7% số nhà báo tham gia khảo sát cho biết có sử dụng AI trong công việc. Tuy nhiên, chỉ gần một nửa trong số họ (49,4%) sử dụng AI hằng ngày. Các nhà báo chủ yếu sử dụng AI tổng quát để soạn thảo và chỉnh sửa nội dung, phiên âm, kiểm tra thực tế và nghiên cứu. Các công cụ như ChatGPT, Grammarly, Otter và Canva đã nhanh chóng trở nên cần thiết đối với nhiều nhà báo, vì giúp tiết kiệm thời gian và tăng hiệu hiệu quả, đồng thời nâng cao ý tưởng và khả năng sáng tạo.

Như một nhà báo từ Ghana chia sẻ: “AI đã nâng cao đáng kể chất lượng tin bài vì giúp hợp lý hóa nghiên cứu, đồng thời cho phép tôi phân tích dữ liệu phức tạp một cách nhanh chóng và chính xác, đặc biệt là trong các lĩnh vực như nghiên cứu HIV và báo cáo về môi trường”.

2. Gặp rào cản về tiếp cận, đào tạo và lỗ hổng chính sách

Tuy nhiên, cuộc khảo sát cũng ghi nhận: Chỉ 13% người được hỏi cho biết tòa soạn có chính sách AI chính thức. Số còn lại thiếu hướng dẫn, định hướng về sử dụng AI khiến việc sử dụng AI hầu như tùy thuộc vào cá nhân. Điều này tạo ra khoảng trống về kiểm soát đạo đức và nguyên tắc viết bài của các nhà báo.

Bên cạnh đó, nhiều nhà báo cho biết phải đối mặt với những rào cản như hạn chế tiếp cận các công cụ AI, chi phí cao và thiếu đào tạo, cùng với việc thiếu hướng dẫn từ ban quản lý ở trên. Đối với một số người, đặc biệt là những người làm việc trong các tòa soạn có nguồn lực hạn chế, việc áp dụng AI vẫn còn nhiều thách thức, thường là do hạn chế về tài chính và công nghệ.

Một trong những kết quả nổi bật của cuộc khảo sát trên là gần 58% người tự học về AI, chứ không được đào tạo chính thức từ tòa soạn.

3. Rủi ro thông tin sai lệch

Mặc dù AI có những lợi ích rõ ràng, nhưng các nhà báo cũng cảnh giác với những rủi ro từ AI.

Gần một nửa (49%) số người được hỏi lo lắng về việc AI khuếch đại nội dung sai lệch hoặc gây hiểu lầm, đặc biệt là khi hầu hết các mô hình AI được đào tạo trên bộ dữ liệu lấy phương Tây làm trung tâm.

Nhiều người lo ngại rằng sự phụ thuộc quá mức vào AI có thể làm suy yếu khả năng phán đoán của biên tập, báo cáo ban đầu và sự sáng tạo.

Ngoài ra, kết quả khảo sát còn đặt ra lo ngại AI sẽ dẫn đến nội dung chung chung và thiếu sự khác biệt. Như một biên tập viên từ Ả Rập Xê Út đặt vấn đề: “Nếu mọi người sử dụng cùng một công cụ AI theo cùng một cách thức thì có thể khiến các nhà báo mất đi sự khác biệt và độc đáo riêng”.