Đặng Kim Trâm – em gái liệt sĩ Đặng Thùy Trâm – vẫn hy vọng có sự nhầm lẫn khi nhận giấy báo tử của chị gái.
Chị tôi hy sinh ngày 22 tháng 6 năm 1970. Mãi mấy tháng sau gia đình tôi mới biết tin dữ. Hôm đó là một ngày đầu đông, có mấy người khách đến gặp gia đình. Mẹ tôi ngã vật xuống giường lặng đi không nói được câu nào. Nhưng mẹ tôi không khóc. Mẹ tôi là một người phụ nữ ít nói, đầy nghị lực và đầy lý trí. Có lẽ nỗi đau đã đông lại trong tim thành một khối rắn chắc, kể từ đó mẹ tôi càng ít nói và hầu như tôi không thấy mẹ tôi cười.

Bác sĩ Đặng Thùy Trâm (trái) và mẹ. Ảnh: Gia đình cung cấp
Phải mấy năm sau, năm 1974 gia đình tôi mới nhận được giấy báo tử chị đã hy sinh. Đó là mẩu giấy nhỏ, đánh máy rất đơn giản. Thời chiến, rất nhiều gia đình miền Bắc, hầu như đại đa số, đều từng phải nhận một, hai hoặc nhiều hơn những mẩu giấy như thế. Giấy trắng mực đen nhưng chúng tôi vẫn không tin, vẫn hy vọng đó chỉ là một sự nhầm lẫn. Cả đến khi một người bạn của chị tôi là thương binh được đưa ra miền Bắc điều trị tìm đến nhà và khẳng định, chúng tôi vẫn không muốn tin. Giấy báo tử ghi ngày chị hy sinh là 22/6/1970, tuy nhiên chúng tôi lại tin vào lời người bạn của chị lúc đầu báo chị hy sinh ngày 20/7/1970 tức 20/6 âm lịch, do đó vẫn lấy ngày 20/6 âm lịch làm ngày giỗ chị. Thậm chí sau này khi đưa được hài cốt chị về nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm, trên bia mộ chúng tôi vẫn ghi ngày mất là 20/7/1970. Mãi sau này chúng tôi mới nhận ra sự nhầm lẫn ấy và sửa lại bia mộ cũng như ngày giỗ hàng năm là 19/5 âm lịch, nhưng đó là chuyện của ba mươi lăm năm sau, năm 2005, khi hai cuốn nhật ký được người cựu chiến binh Mỹ trả về cho má tôi, cùng với nó bao nhiêu điều khác được làm rõ.
Giấy báo tử không nói rõ hoàn cảnh chị hy sinh. Đồng đội cũng mỗi người nói một khác. Người thì kể trên đường về đồng bằng xin tiếp tế cho bệnh xá chị tôi gặp ổ phục kích của Mỹ, chị báo động cho đồng đội chạy thoát và ở lại yểm trợ rồi hy sinh. Người khác kể bệnh xá bị địch tập kích, chị hy sinh để bảo vệ thương binh. Có người lại kể toán công tác của chị có bốn người, hy sinh ba, chỉ còn một người thoát. Cuộc chiến tranh quá khốc liệt, cái chết diễn ra từng ngày, từng giờ, chị tôi hòa lẫn trong muôn ngàn người đã lặng lẽ hy sinh vì Tổ quốc, người ta có thể lẫn lộn trường hợp này với trường hợp khác. Có một điều chắc chắn là chị tôi hy sinh trong tư thế đương đầu với giặc. Một vết đạn sâu hoắm ghim ngay giữa trán chị – điều này khi mẹ và tôi cùng em Quang, anh Nhàn lên vùng núi Ba Tơ để đưa chị về đồng bằng tôi đã nhìn thấy. Anh Tâm, nguyên phó bí thư huyện ủy Đức Phổ, đã nghỉ hưu, cho biết anh được nghe kể lại trước khi hy sinh chị còn hô vang Hồ Chí Minh muôn năm! Đả đảo đế quốc Mỹ! Tôi cũng không rõ đó có phải là sự thật hay không, hay chỉ là một huyền thoại mà người dân Đức Phổ yêu thương gán cho người nữ bác sĩ trẻ trung xinh đẹp quê ở Hà Nội, đã chiến đấu và nằm lại trên quê hương họ – trên mảnh đất Đức Phổ mà chị đã coi là quê hương thứ hai của mình.
, , , Hết.
Liệt sĩ – bác sĩ , tên khai sinh là Đặng Thị Tịnh Thủy, sinh ngày 26/11/1942. Chị có bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là dược sĩ Doãn Ngọc Trâm – nguyên giảng viên Đại học Dược Hà Nội.
Tốt nghiệp Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, Đặng Thùy Trâm xung phong vào công tác ở chiến trường B. Tháng 3/1967, chị vào đến Quảng Ngãi và được phân công về phụ trách bệnh viện huyện Đức Phổ – đơn vị dân y nhưng chủ yếu điều trị cho các thương bệnh binh. Ngày 22/6/1970, Đặng Thùy Trâm bị địch phục kích trong một chuyến công tác từ vùng núi Ba Tơ về đồng bằng, hy sinh khi mới 27 tuổi.
(Trích sách Đặng Thùy Trâm và cuốn nhật ký thứ ba, NXB Phụ nữ)