Nhà văn Vũ Bằng từ trữ tình sâu lắng đến châm biếm thâm thúy

Nhà văn Vũ Bằng từ trữ tình sâu lắng đến châm biếm thâm thúy

bởi

trong

Năm 16 tuổi ông đã có truyện đăng báo, liền sau đó ông lao vào nghề văn, nghề báo với tất cả niềm say mê. Năm 17 tuổi ông xuất bản tác phẩm đầu tay Lọ văn. Trong lĩnh vực báo chí, ngay từ trong thập niên 1930 – 1940, khi còn rất trẻ, ông đã là chủ bút tờ Tiểu thuyết thứ bảy, thư ký tòa soạn của các tờ báo nổi tiếng như Trung Bắc chủ nhật, Ngày Nay, Hà Nội báo… và cộng tác với nhiều tờ báo ở Hà Nội, Sài Gòn.

Nhà văn Vũ Bằng từ trữ tình sâu lắng đến châm biếm thâm thúy

Nhà văn Vũ Bằng

ẢNH: TƯ LIỆU

Theo cuốn kỷ yếu Nhà văn Việt Nam hiện đại (NXB Hội Nhà văn), nhà văn Vũ Bằng tên khai sinh là Vũ Đăng Bằng, sinh năm 1913 tại Hà Nội, quê gốc ở H.Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ông còn ký với các bút hiệu khác: Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm. Ông mất năm 1984 tại TP.HCM.

Một số tác phẩm đã xuất bản: Lọ văn (tập văn trào phúng, 1931); Một mình trong đêm tối (tiểu thuyết, 1937); Truyện hai người (tiểu thuyết, 1940); Tội ác và hối hận (tiểu thuyết, 1940); Chớp bể mưa nguồn (tiểu thuyết, 1941); Quých và Quác (truyện thiếu nhi, 1941); Bèo nước (tiểu thuyết, 1944); Cai (hồi ký, 1942); Mộc hoa vương (tiểu thuyết, 1953); Miếng ngon Hà Nội (tạp văn, 1955); Ăn tết thủy tiên (1956); Thương nhớ mười hai (tùy bút, 1960); Miếng lạ miền Nam (bút ký, 1969); Bốn mươi năm nói láo (hồi ký, 1969); Khảo về tiểu thuyết (1951, 1955); Mê chữ (tập truyện, 1970); Nhà văn lắm chuyện (1971); Những cây cười tiền chiến (1971); Bóng ma nhà mệ Hoát (tiểu thuyết, 1973); Tuyển tập Vũ Bằng (3 tập, NXB Văn học, 2000); Những kẻ gieo gió (2 tập, NXB Văn học, 2003); Vũ Bằng toàn tập (4 tập, NXB Văn học, 2006); Vũ Bằng, các tác phẩm mới tìm thấy (Lại Nguyên Ân sưu tầm; NXB Văn hóa Sài Gòn, 2010); Hà Nội trong cơn lốc (NXB Phụ Nữ, 2010); Văn hóa… Gỡ (NXB Phụ Nữ, 2012)… và một số sách dịch khác. Ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

Cuối năm 1946, Vũ Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng chiến. Cuối năm 1948, trở về Hà Nội, ông bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới tình báo cách mạng (bí danh X10). Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và con trai ở Hà Nội, tiếp tục cầm bút và hoạt động cho đến 30.4.1975. Trở lại Hà Nội sau 1975, Vũ Bằng chính thức được ghi nhận là hội viên Hội Nhà văn VN.

Nhà văn, nhà báo Vũ Bằng là một gương mặt tiêu biểu của nền văn học và báo chí VN hiện đại, với những đóng góp sâu sắc cả trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Ông nổi bật không chỉ bởi nghề viết phóng sự, viết tùy bút, viết báo, mà còn bởi một phong cách văn chương tài hoa, tinh tế và đầy cảm xúc, để lại dấu ấn riêng biệt trong nền văn học dân tộc.

Những bài phóng sự, tiểu phẩm, chân dung báo chí của Vũ Bằng sắc sảo, đậm tính nhân văn và thấm đượm tinh thần dân tộc. Ông không ngần ngại phê phán xã hội thực dân nửa phong kiến, bảo vệ người lao động nghèo, đồng thời sử dụng ngòi bút như một công cụ chiến đấu. Ông viết nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết mang hơi hướng hiện thực xã hội, nhưng cũng đậm chất lãng mạn, phản ánh đời sống tinh thần của người dân đô thị. Những tác phẩm tiêu biểu giai đoạn này có thể kể đến như: Hương cốm đầu mùa, Cái lễ, Đêm cuối cùng của một bức thư tình…

Phong cách báo chí của Vũ Bằng sắc sảo, linh hoạt, duyên dáng, các bài báo của ông thường châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay, lối hành văn mềm mại nhưng thâm thúy. Ông không viết báo một cách khô khan mà luôn kể chuyện, dựng hình ảnh, gợi cảm xúc với ngôn ngữ đời thường mà trau chuốt, dễ tiếp cận công chúng nhưng không dễ dãi. Ông là người tiên phong trong việc đưa chất văn chương vào báo chí, làm nên một phong cách riêng biệt giữa báo chí thời bấy giờ.

Phong cách văn chương của Vũ Bằng đậm chất tùy bút trữ tình sâu lắng, nhất là trong Thương nhớ mười hai – một kiệt tác của thể loại tùy bút văn chương, trong đó ông khéo léo đan xen ký ức, cảm xúc và văn hóa dân gian, tạo nên một bản hòa ca về nỗi nhớ. Ngôn từ của ông giàu hình ảnh, âm nhạc, câu văn có nhịp điệu, mềm mại như thơ, gợi lên được cảnh sắc và cảm xúc một cách tinh tế. Văn của ông là nỗi đau của người ly hương, là lòng tự hào về văn hóa dân tộc, là sự giằng xé của người sống trong chia cắt đất nước với tinh thần yêu nước, hoài cổ.

Ông là một “nghệ sĩ ngôn từ” trong cả hai lĩnh vực văn học và báo chí, là một cầu nối giữa hiện thực và tâm hồn dân tộc VN qua thời kỳ biến động lịch sử. Có thể nói hai tác phẩm Thương nhớ mười hai Bốn mươi năm nói láo là hai đỉnh cao đặc sắc trong sự nghiệp văn chương – báo chí của Vũ Bằng, thể hiện rõ phong cách tùy bút, chất trữ tình và tư tưởng nhân văn sâu sắc.

Hai tác phẩm Thương nhớ mười haiBốn mươi năm nói láo thể hiện hai mặt trong phong cách Vũ Bằng: Một bên là nỗi niềm trữ tình, sâu lắng, đậm chất dân tộc và tình cảm. Một bên là giọng điệu hóm hỉnh, tự trào, phản ánh tinh thần tự do, phản biện sắc sảo. Cả hai đều là minh chứng cho tài năng ngôn ngữ, cảm xúc và bản lĩnh trí thức của một cây bút lớn, xứng đáng là một tượng đài trong nền văn học và báo chí hiện đại VN. (còn tiếp)