Thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà tên thật Trương Khương Trinh (sinh năm 1929, mất năm 2014), là “nhà của nhiều nhà” nhưng lại rất nghèo và có lúc… không có nhà ở.
Nhà thơ kể chuyện nhà văn
Nhà thơ Kiên Giang – Hà Huy Hà rất vui vẻ, hào phóng, đặc sệt phong cách Nam bộ. Hồi khai trương nhà lưu niệm nhà văn Sơn Nam năm 2010, từ TP.HCM, nhà thơ Kiên Giang đi xe đò xuống Mỹ Tho, trên tay cầm tờ Thanh Niên. Vừa gặp tôi, ông nói: “Tao đọc bài mầy viết rồi. Khá lắm. Nếu là tao, tao sẽ thưởng cho mầy… 10 triệu liền!”.
Kể chuyện về Sơn Nam, thi sĩ Kiên Giang – Hà Huy Hà nói: “Tao với Sơn Nam vốn cùng quê xã Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá cũ. Cùng học ở Cần Thơ rồi cùng đi kháng chiến. Khi lên Sài Gòn thì cùng làm báo nên bọn tao trở thành đôi bạn chí thân”. Theo nhà thơ Kiên Giang, khi gặp lại nhau ở Sài Gòn, chính ông đã giới thiệu Sơn Nam viết cho báo Tin Sáng để “kiếm cơm” và sau này, nhờ Sơn Nam… xúi nên ông với Hà Triều – Hoa Phượng trở thành soạn giả cải lương nổi tiếng.

Thi sĩ Kiên Giang bên bức tượng nhà văn Sơn Nam
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG

Thi sĩ Kiên Giang lúc 83 tuổi
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Lúc ấy, dù đã 83 tuổi nhưng ông còn rất phong độ và phong cách đúng là… ký giả thứ thiệt. Ông nói: “Tính Sơn Nam hay la cà, nói chuyện có duyên, cũng nhờ vậy mà ổng hơn tao về mặt… tình ái! Ví dụ như với bà vợ thứ hai vốn là hiệu trưởng một trường tư thục ở Sài Gòn. Khi bạn bè mướn nhà cho Sơn Nam thì nói ông là dân bến tàu, nên được bố trí ở một góc chái. Một hôm đang ngồi viết bài, ông bỏ ra ngoài mua gì đó thì đèn dầu phựt cháy. Khi bà chủ nhà chạy vào dập lửa thì thấy toàn là sách vở mới ngạc nhiên về “thằng cha bến tàu”. Vậy là từ đó hai người… dính luôn!”.
Trong tập thơ Lúa sạ miền Nam của thi sĩ Kiên Giang, nhà văn Sơn Nam viết: “Từ Hoa trắng thôi cài trên áo tím đến Quê hương thơ ấu và Lúa sạ miền Nam, Kiên Giang vẫn giữ hơi hướm thơ thuần nhứt đúng như lời nhận xét của nhà văn Thiếu Sơn. Tuy nhiên trong Lúa sạ miền Nam, Kiên Giang nhúng hồn thơ trong niềm đau và hào khí của người miền Nam đã dày công khai phá đất đai mở rộng chân trời xanh, phản ánh ít nhiều đường nét linh động thâm trầm của nền văn minh miệt vườn”.
Nhà của rất nhiều nhà
Trong quyển Đời nghệ sĩ (NXB Phụ Nữ Việt Nam 2025), nhà văn Võ Đắc Danh nhận xét: “Kiên Giang – Hà Huy Hà là một hiện tượng đặc biệt. Ông là nhà của rất nhiều nhà: nhà thơ, nhà báo, sân khấu, cải lương và là nhà từ thiện… không nhà. Ở tất cả các thể loại, ông đều có tác phẩm đỉnh cao vào hàng kinh điển. Độc đáo nhất là khi ông đưa thơ vào cải lương làm tác phẩm ngọt ngào, trau chuốt mà rất dân gian”.

Tập thơ Lúa sạ miền Nam của thi sĩ Kiên Giang
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Sinh ra trong một gia đình nông dân, Kiên Giang trải qua tuổi thơ nhọc nhằn ở vùng quê nghèo khó U Minh Thượng. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Hòa bình lập lại, ông lên Sài Gòn làm ký giả kịch trường cho nhiều tờ báo như Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Điện Tín… và tham gia chương trình tiếng thơ Mây Tần trên đài phát thanh Sài Gòn. Về sân khấu, ông viết nhiều tuồng cải lương nổi tiếng như: Áo cưới trước cổng chùa, Người đẹp bán tơ, Ngưu Lang – Chức Nữ, Sơn nữ Phà Ca…
Bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím của ông càng được phổ biến rộng hơn khi nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc vào năm 1962 và được nhiều ca sĩ nổi tiếng hát.
Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt ở Hà Tiên kể năm 1958, một lần về Hà Tiên tìm tư liệu viết bài, trong một đêm tá túc ở chùa Phù Dung, nhà văn Sơn Nam đã gặp sư trụ trì. Sư vốn là người trong dân gian không rành lịch sử, nên nảy sinh ý tưởng sáng tác ra câu chuyện về ngôi mộ không theo hình dạng bình thường mà giống như cái ảng chụp lại. Ông lại nghe Mạc Thiên Tích có 2 vợ. Người vợ thứ 2 là bà Dì Tự, khi bà qua đời được chôn ở gần chùa. Sư cho rằng bà này bị ghen, hồi còn sống đã bị bà vợ lớn chụp cái ảng lên đầu, nên khi chôn người ta làm mộ úp lên để nhắc chuyện cũ.

Tiểu thuyết Nàng Ái Cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết được Kiên Giang chuyển thể thành cải lương
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Câu chuyện ly kỳ trên cũng được ông Trần Thiêm Trung viết trong bộ địa phương chí Hà Tiên. Bản địa phương chí này có gửi cho thi sĩ Đông Hồ và Mộng Tuyết. Sau khi phối kiểm, nhà văn Sơn Nam đã viết lại đăng trên tạp chí Nhân Loại (ngày 1.12.1958) với tiêu đề Hà Tiên đất Phương Thành, trong đó có kể câu chuyện lâm ly, vợ lớn ghen và úp bà vợ nhỏ trong chậu…
Năm 1961, tiểu thuyết Nàng Ái cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết được phát hành. Trong dịp họp mặt nhân ngày giỗ đầu thi sĩ Đông Hồ, có nhà thơ Kiên Giang và Sơn Nam tới dự. Dịp này, Kiên Giang đã xin phép bà Mộng Tuyết chuyển thể tiểu thuyết thành cải lương. Từ đó, câu chuyện về bà Dì Tự có thêm nhiều tình tiết lâm ly bi đát qua tuồng cải lương Áo cưới trước cổng chùa của Kiên Giang – Hà Huy Hà, làm rơi lệ không biết bao nhiêu khán thính giả thời bấy giờ.
Sau năm 1975, thi sĩ Kiên Giang vẫn rày đây mai đó, vẫn là ký giả nghèo và lận đận với kiếp lãng du, khiến người ta nhớ lại bài Đêm đen vùng đất cháy của ông: “Dân nghèo làm du mục/ Chui rúc dưới dạ cầu/ Đêm đen mưa gió tạt/ Hơi thở quặn đèn dầu”. (còn tiếp)
Nhận xét về tập thơ Quê hương thơ ấu của Kiên Giang, thi sĩ Bùi Giáng từng viết: “Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc. Kiên Giang tuyệt nhiên không cầu kỳ, không giả tạo, mà đạt tới chỗ thâm sâu thuần nhất trong linh hồn mọi người một cách thuần nhiên. Bàn giải thơ ông là làm công việc thừa, vô ích”.