Cú hích cho tương lai rừng gỗ lớn Việt Nam

Cú hích cho tương lai rừng gỗ lớn Việt Nam

bởi

trong
Cú hích cho tương lai rừng gỗ lớn Việt Nam

(trái) Cây không áp dụng biện pháp tỉa cành và thân phụ, (phải) cây được áp dụng kỹ thuật này ở lô rừng của công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn, tỉnh Gia Lai

ảnh: thụy miên

Lô rừng có diện tích 4 ha, bắt đầu trồng tổng cộng 2.000 cây keo lai từ tháng 12.2022. Đến nay rừng được 2 năm 9 tháng tuổi, được tỉa thưa (tức chặt bớt cây) xuống còn 1.200 ha. Chủ rừng là công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn, một trong các bên tham gia Dự án “Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam” (SFM).

Rừng gỗ lớn từ kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài

Dự án SFM do Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ) ủy thác, Ban Quản lý các Dự án lâm nghiệp (MBFP) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường và Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) phối hợp thực hiện. Dự án này được triển khai từ năm 2022 đến 2025 tại ba tỉnh: Quảng Trị, Gia Lai và Đắk Lắk.

Phát biểu tại hội nghị tổng kết Dự án SFM tại phường Quy Nhơn (tỉnh Gia Lai) hôm 15.9, ông Ngô Văn Tỉnh, Giám đốc Công ty TNHH Lâm nghiệp Quy Nhơn, chia sẻ bài học kinh nghiệm sau gần 3 năm trồng rừng gỗ lớn.

Hướng đến tương lai rừng gỗ lớn cho Việt Nam - Ảnh 2.

Toàn cảnh một mô hình trồng rừng gỗ lớn keo lai mô

ảnh: thụy miên

Theo đó, công ty ghi nhận được những hiệu quả tích cực từ việc trồng rừng gỗ lớn đối với chất lượng đất đai, chống xói mòn, tăng độ che phủ rừng, điều hòa và ứng phó biến đổi khí hậu. Kinh nghiệm thu được là cần tỉa cành sớm và định kỳ (chưa đến 1 năm kể từ khi trồng cây), và tỉa thưa lần đầu sớm (sau 30 tháng).

Ông Tỉnh cho biết Dự án SFM còn hỗ trợ công ty sản xuất thử nghiệm 2.000 cây dầu đọt tím vào năm 2023. Cây dầu đọt tím là loài nguy cấp quý hiếm, cần được nhân giống và bảo tồn gien. Và lứa trồng đầu tiên đã thành công, cho phép công ty tiến tới mở rộng sản xuất.

Cũng tại hội nghị, ông Nguyễn Ngọc Đạo, Chủ tịch công ty Lâm nghiệp Sông Kôn (xã Bình Hiệp, tỉnh Gia Lai) cũng chia sẻ về kinh nghiệm rồng rừng trước và sau khi có dự án. Công ty cũng tham gia mô hình trình diễn trồng rừng gỗ lớn và có xen cây bản địa (lim xanh).

“Tôi bắt đầu trồng rừng từ những năm 2000 mà cho đến gần đây mới thực sự tiếp cận được kỹ thuật trồng rừng tiên tiến của thế giới, thông qua chuyến đi thực địa ở Đức”, ông Đạo cho biết. Ông nói thêm rằng công ty đang đặt mục tiêu trồng rừng gỗ lớn từ 20 đến 30 năm, bên cạnh phát triển hoạt động bảo tồn và rừng sinh thái – du lịch.

Hướng đến tương lai rừng gỗ lớn cho Việt Nam - Ảnh 3.

Bà Michaela Baur, giám đốc GIZ tại Việt Nam, tại lô rừng của công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn

ảnh: thụy miên

Những kết quả của dự án

Bà Michaela Baur, giám đốc GIZ tại Việt Nam, cho hay dự án nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa Việt Nam và Đức trong lĩnh vực lâm nghiệp. Với kinh phí 4,7 triệu EUR do chính phủ Đức cung cấp trong 4 năm qua, đây là một phần của danh mục đầu tư lớn hơn trong lĩnh vực này, phản ánh cam kết chung của Đức đối với phát triển bền vững và hành động vì khí hậu.

Theo báo cáo tại hội nghị, dự án đã đạt được nhiều kết quả nổi bật trong quá trình triển khai, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ và phát triển rừng một cách bền vững. Cụ thể, đã có 42,5 ha rừng được nhân rộng, cùng với 2.118,5 ha khu vực trình diễn, trong đó bao gồm cả diện tích trồng 6 ha cây bản địa.

Hướng đến tương lai rừng gỗ lớn cho Việt Nam - Ảnh 4.

Nguyên liệu gỗ được trưng bày tại hội nghị

ảnh: thụy miên

Song song với việc mở rộng diện tích rừng, dự án cũng đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và cung ứng giống cây trồng. Có thể kể đến 150 bình gốc giống keo lai được cung cấp và đặc biệt, nhóm thực hiện đã ươm thành công các lô cây dầu đọt tím, loại cây bản địa có giá trị sinh thái cao.

Để đảm bảo tính bền vững lâu dài, dự án đặc biệt chú trọng công tác đào tạo và hoàn thiện chính sách. 48 sự kiện và khóa tập huấn đã được tổ chức, cùng với 5 mô-đun đào tạo triển khai trên 8 nền tảng đối tác.

Ngoài ra, 3 văn bản pháp lý được xây dựng và ban hành, tạo hành lang hỗ trợ kỹ thuật và pháp lý cho chủ rừng. Đồng thời, 14 thỏa thuận hợp tác giữa chủ rừng, cộng đồng và đơn vị thi công đã được ký kết, 4 phương án quản lý rừng bền vững và 6 kế hoạch kinh doanh hàng năm cũng được xây dựng nhằm duy trì hiệu quả hoạt động lâm nghiệp theo chu kỳ dài.

Hướng đến tương lai rừng gỗ lớn cho Việt Nam - Ảnh 5.

Triển lãm hình ảnh tại hội nghị

ảnh: thụy miên

Về mặt tài chính, dự án đã triển khai các mô hình tạo sinh kế dưới tán rừng như trồng nấm linh chi tại BQLRPH Bến Hải và Thạch Hãn. Với quy mô 150 m²/mô hình, các điểm trồng nấm đã thu hoạch được 3 vụ/năm, đạt sản lượng 54 kg trong năm 2025 với giá bán khoảng 400.000 đồng/kg – mở ra hướng đi tiềm năng cho kinh tế lâm sinh.

Ngoài ra, hai mô hình kinh doanh rừng gỗ lớn và nhỏ tại Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn và Sông Kôn ghi nhận mức thu nhập thuần lần lượt là 229 triệu đồng/ha/năm và 39 triệu đồng/ha/năm. Không chỉ vậy, hai kế hoạch liên danh liên kết cũng đã được triển khai trên diện tích 1.795 ha nhằm giảm khoảng cách tài chính trong quá trình chuyển đổi sang rừng gỗ lớn.

Hướng đến tương lai

Ông Nguyễn Văn Hoan, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai, nhận định Dự án SFM trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực quản lý rừng bền vững, chuyển đổi rừng trồng sang chu kỳ dài để nâng cao chất lượng gỗ, cải thiện hấp thụ các bon và bảo vệ môi trường và lợi ích kinh tế cho chủ rừng, qua đó góp phần cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư địa phương, đồng thời thúc đẩy vai trò của phụ nữ và nông dân trong công tác bảo vệ và phát triển rừng.

Hướng đến tương lai rừng gỗ lớn cho Việt Nam - Ảnh 6.

Thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong công tác bảo vệ và phát triển rừng

ảnh: thụy miên

Theo ông Hoan, năm 2025 là một dấu mốc đặc biệt, không chỉ đánh dấu sự thành công của Dự án SFM mà còn kỷ niệm 30 năm hợp tác hiệu quả giữa Việt Nam và Đức trong lĩnh vực lâm nghiệp và bảo vệ môi trường.

Trong thời gian tới, cụ thể là từ năm 2026, tỉnh Gia Lai sẽ triển khai 2 dự án được tài trợ từ Chính phủ Đức thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) đối với lĩnh vực lâm nghiệp, cụ thể là: Dự án Quản lý hệ sinh thái rừng có sự tham gia của người dân và Dự án Bảo vệ, phục hồi rừng bền vững ở Tây Nguyên – tỉnh Gia Lai.

Về phần mình, ông Đạo của công ty Lâm nghiệp nêu lên nhu cầu có giống mới để thay thế cây keo lai và cây bạch đàn, hai loại cây sử dụng lâu nay và đối mặt nguy cơ về sâu bệnh nếu kéo dài. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, ông cho rằng cần thiết có giống mới để tiến tới trồng rừng hiệu quả và bền vững.