Ai quyết định việc sinh con?

Ai quyết định việc sinh con?

bởi

trong
Ai quyết định việc sinh con?

Trong buổi đối thoại với thanh niên mà chúng tôi tổ chức gần đây, một bạn trẻ không ngần ngại tiết lộ, thu nhập của bạn hiện ở mức 4-5 triệu đồng/ tháng, lương của chồng cũng chỉ nhỉnh hơn đôi chút.

Hai vợ chồng đang thuê một phòng trọ nhỏ, 3 triệu đồng một tháng. Bạn hỏi ngược chúng tôi: Nếu sinh con, tụi em sẽ nuôi cháu lớn lên bằng cách nào?

Đó không phải là câu chuyện cá biệt. Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ sinh đang giảm đã làm dấy lên nỗi lo về một “cuộc khủng hoảng dân số”. Cùng lúc, khi dân số toàn cầu vượt mốc 8 tỷ người, con số cao nhất trong lịch sử, lại có những cảnh báo về “bùng nổ dân số”. Hai luồng lo ngại tưởng như trái ngược đang cùng thổi bùng những tranh luận gay gắt về cách các quốc gia phản ứng với biến động nhân khẩu.

Từ những tấm biển cổ động ngoài phố, đến áp lực vô hình từ gia đình và xã hội, cho tới chính sách thưởng tiền nếu sinh thêm con, tất cả đều truyền đi thông điệp: phụ nữ “nên” sinh con. Nhưng những thông điệp đó thường phớt lờ hoặc chưa đề cập đầy đủ đến điều quan trọng nhất: quyền của mỗi người được đưa ra lựa chọn sinh sản theo ý mình, và chính phủ có thể làm gì để giúp họ hiện thực hóa lựa chọn đó.

Báo cáo Tình trạng Dân số Thế giới 2025 của UNFPA kể một câu chuyện rất khác: phần lớn mọi người vẫn muốn có con, kể cả ở những nước có tỷ lệ sinh thấp nhất. Thế nhưng, cứ một trong 5 người trưởng thành dưới 50 tuổi nói rằng họ có thể sẽ không có được số con như mong muốn. Trong số những người đã hoàn tất việc sinh con, một phần ba cho biết họ có ít con hơn dự kiến ban đầu.

Lý do? Không phải vì họ không muốn có con, mà vì các áp lực kinh tế – xã hội khiến mong muốn đó trở nên bất khả thi: nhà ở đắt đỏ, thiếu dịch vụ chăm sóc trẻ em, công việc không ổn định, bất bình đẳng giới, thiếu tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, khó tìm được người bạn đời phù hợp, và những lo ngại ngày càng tăng về xung đột, biến đổi khí hậu. Tất cả khiến việc làm cha mẹ trở nên quá xa vời với nhiều người.

Các cuộc tranh luận công khai dường như chỉ xoay quanh câu hỏi: “Làm sao để khuyến khích phụ nữ sinh thêm con?”. Trong khi điều cần hỏi nên là: “Những rào cản nào đang ngăn cản các cá nhân và cặp đôi có được số con mong muốn, và làm sao tháo gỡ những rào cản đó?”.

Lịch sử cho thấy các chính sách can thiệp vào quyền sinh sản, từ ép buộc cho tới thưởng tiền, thường không mang lại hiệu quả. Những chính sách như vậy ít nhiều phản ánh tư duy gia trưởng hoặc coi dân số như một công cụ của nhà nước thay vì tôn trọng quyền của từng cá nhân. Không chỉ không hiệu quả, chúng còn dễ dẫn đến hệ lụy: tăng tử vong mẹ, gia tăng vô sinh thứ phát do phá thai không an toàn, và cản trở bình đẳng giới.

Nhiều bằng chứng cho thấy: khi người dân cảm thấy lựa chọn sinh sản của họ bị can thiệp, dù có là qua những chính sách lồng ghép một cách tinh tế, khéo léo hoặc không dễ nhận thấy, thì họ lại càng không muốn có con.

Báo cáo của UNFPA khảo sát 14.000 người tại 14 quốc gia – những quốc gia này chiếm hơn một phần ba dân số toàn cầu. Chúng tôi đã hỏi họ mong muốn gì cho vấn đề sinh sản và tương lai của mình, kết quả cho thấy thay vì đưa ra khẩu hiệu mang tính ép buộc hay tiền thưởng, các quốc gia cần những chính sách thực chất, xoay quanh nhu cầu thực tế, lấy con người làm trung tâm: chế độ nghỉ thai sản cho tất cả bậc cha mẹ, dịch vụ trông trẻ với chi phí hợp lý, công việc ổn định, nhà ở phù hợp và bình đẳng trong việc chăm sóc con cái. Điều này cũng bao gồm giáo dục giới tính toàn diện theo độ tuổi, hỗ trợ người vô sinh, và bảo đảm quyền làm cha mẹ cho các cặp đôi LGBTQI+.

Báo cáo cũng chỉ ra rằng, một phần ba số người tham gia khảo sát từng trải qua mang thai ngoài ý muốn vì thiếu thông tin, thiếu dịch vụ kế hoạch hóa gia đình hoặc vì áp lực từ người thân. Mang thai ngoài ý muốn tiềm ẩn nhiều rủi ro nghiêm trọng, bao gồm các biến chứng y tế, căng thẳng tâm lý và những tác động tiêu cực đến sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh.

Giống như nhiều quốc gia khác, Việt Nam đang trải qua những thay đổi sâu sắc về cơ cấu dân số. Tỷ suất sinh đã giảm từ mức trung bình 5 con/phụ nữ vào năm 1950 xuống còn 1,91 vào năm 2024.

Tuy nhiên, vì lựa chọn sinh sản của cá nhân luôn bị ảnh hưởng bởi những điều kiện xã hội – kinh tế rộng lớn hơn: như chuẩn mực giới, hôn nhân, chăm sóc không lương, phân công lao động trong gia đình nên các chính sách ứng phó với biến động dân số cần phải vượt ra ngoài các giải pháp nhân khẩu học thuần túy.

Việt Nam cần tập trung gỡ bỏ những rào cản cơ cấu đang cản trở quyền sinh sản của người dân như chi phí nuôi con, bất bình đẳng trong công việc và gánh nặng việc nhà, đồng thời đầu tư vào nguồn nhân lực và chất lượng dân số để tận dụng cơ hội dân số vàng.

Từ khảo sát toàn cầu của UNFPA, điều mọi người mong muốn chính là: quyền được quyết định việc có con hay không, khi nào và bao nhiêu con; một thế giới nơi phụ nữ không bị phán xét khi họ lựa chọn sinh ít con hoặc không sinh con; những chính sách hỗ trợ bình đẳng giới; môi trường kinh tế – xã hội trao quyền cho người dân để xây dựng gia đình theo cách họ mong muốn; một thế giới nơi người trẻ tin rằng con cái họ sẽ được sống trong hòa bình và nhân phẩm; một thế giới nơi mọi người, kể cả người độc thân, người đồng tính, người khuyết tật và người di cư, đều được tôn trọng quyền làm cha mẹ.

Quyền sinh sản không phải là “chuyện riêng của phụ nữ” – mà là quyền con người. Và chúng ta đều có trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy quyền tự quyết về sinh sản ấy.

Matt Jackson