
Cuối tháng trước, tôi đưa hai con trai đi xem ấn vàng triều Nguyễn tại một bảo tàng tư nhân ở Hà Nội. Chuyến đi với bao háo hức rốt cuộc mang nỗi buồn khó gọi tên.
Ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” – từng được vua Bảo Đại trao cho chính quyền cách mạng tại Ngọ Môn ngày 30/8/1945 – là một trong những đặc biệt. Buổi lễ thoái vị lịch sử ấy không xa lạ với ký ức gia đình tôi. Người bảo vệ đoàn tiếp nhận ấn kiếm – ông Hoàng Xuân Bình – là họ hàng bên gia đình bà nội, thuộc dòng họ khoa bảng Hoàng Xuân ở Yên Hồ, Hà Tĩnh. Khi vua Bảo Đại ra Hà Nội gặp Bác Hồ, ông đã tin tưởng chọn trí thức trẻ tuổi Hoàng Xuân Bình là vệ sĩ và sĩ quan liên lạc.
Cụ Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều vua Bảo Đại, người tham gia tổ chức lễ trao ấn kiếm và sau này phụ trách kiểm kê tài sản hoàng gia giao lại cho chính quyền mới, là cháu ngoại tuần phủ Hoàng Xuân Phong. Lúc ông bà nội còn sống, tôi đã có vài lần được diện kiến khi cụ đến thăm nhà. Nhà thơ Cù Huy Cận – bạn thân ông nội tôi, nhà văn Bùi Hiển – là một trong ba người đại diện chính quyền tiếp nhận ấn kiếm. Từ nhỏ, tôi đã thuộc làu lời tuyên ngôn mạnh mẽ trong Chiếu thoái vị của vị vua cuối cùng của triều Nguyễn: “Trẫm thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ”.
Những mối dây lịch sử ấy khiến chuyến đi xem ấn vàng không chỉ là cuộc tham quan, mà là một hành trình ký ức. Tôi muốn truyền cảm hứng ấy cho con mình. Nhưng khoảnh khắc thiêng liêng nhanh chóng bị phá vỡ.
Hôm đó, một đoàn du khách gần 50 người ào vào phòng trưng bày. Họ nói cười rôm rả, người quay video, người chụp ảnh. Có người thốt lên “sao nhiều vàng thế”, người khác bình phẩm “chắc đầy camera chống trộm”. Không ai để ý tới câu chuyện liên quan đến ấn vàng. Giọng thuyết minh nhỏ dần rồi im hẳn. Cả căn phòng trở thành một sân khấu ồn ào, nơi bảo vật chỉ như một đạo cụ cho những bức ảnh đăng mạng.
Tôi định lên tiếng, mong giữ lại chút trang nghiêm cho không gian trưng bày, nhưng rồi chùn bước. Nhiều lần từng bị nhìn bằng ánh mắt khó chịu vì nhắc nhở nơi công cộng khiến tôi ngần ngại. Tôi chỉ trò chuyện riêng với người thuyết minh về vài điểm chưa chính xác. “Em nói theo sách giáo khoa”, cậu thuyết minh, có lẽ là một nhân viên văn phòng kiêm nhiệm, gãi đầu nói.
Tôi rời bảo tàng, buồn vui lẫn lộn. Vui vì sau nhiều năm lưu lạc, kim ấn lớn nhất triều Nguyễn đã hồi hương. Nó là hiện vật quý báu của một triều đại từng mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền biển đảo trên Hoàng Sa – Trường Sa, để tạo nên hình hài đất nước chữ S hôm nay. Nhưng tiếc thay, như những gì tôi chứng kiến, cách nó được một bộ phận công chúng tiếp nhận thật hời hợt, vô tâm, thậm chí có phần vô lễ.
Không chỉ là người tham quan, tôi còn từng trải qua những phân vân khi đối diện với lựa chọn lưu trữ di sản gia đình. Ông nội tôi – với thói quen ghi chép cẩn trọng – để lại hơn 70 tập nhật ký cùng hàng chục bức thư trao đổi với Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan… Gia đình tôi từng ngần ngại khi Trung tâm Lưu trữ Quốc gia liên hệ xin tiếp nhận. Những tư liệu mỏng manh ấy, liệu có được trân trọng và bảo quản đúng mực?
Sự lo lắng ấy chỉ thực sự tan biến sau một buổi gặp mặt gần đây do Trung tâm tổ chức. Chúng tôi tận mắt chứng kiến hệ thống lưu trữ hiện đại, có thể bảo quản tư liệu lâu dài. Nhưng điều làm chúng tôi an tâm hơn là sự hiểu nghề và yêu nghề của đội ngũ cán bộ lưu trữ. Đặc biệt, việc bộ sưu tập của nhạc sĩ Hoàng Vân được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho nhiều gia đình văn nghệ sĩ. Rõ ràng, những ký ức của một dân tộc sẽ được quốc tế ghi nhận nếu được gìn giữ đúng cách.
Từ câu chuyện bảo vật quốc gia đến những tập nhật ký trong ngăn tủ gia đình, tôi nhận ra một điều: không di sản nào có thể sống lâu nếu thiếu ba yếu tố đồng hành – người sở hữu hiểu giá trị, người lưu giữ có trách nhiệm và cộng đồng thụ hưởng biết trân trọng. Khi một di sản chỉ còn là nền cho các bức ảnh selfie, khi một ngai vua bị phá hoại, đó không chỉ là lỗi của bảo tàng, đó là kết quả của một nền giáo dục thiếu chiều sâu.
Để cải thiện việc xem nhẹ di sản, cổ vật, biện pháp xử lý người trông coi, như trường hợp bảo vệ ở Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, có lẽ, chỉ là cách giải quyết ở phần ngọn. Di sản không thể chỉ nằm trong tủ kính, được “bảo vệ” bằng vài camera và dây nhung đỏ. Di sản cần được sống trong nhận thức, trong giáo dục, trong những câu chuyện gia đình, và trên cả là trong lòng người.
Khi lịch sử bị đóng khung trong giáo trình khô cứng, khi lời thuyết minh chỉ là văn mẫu, bảo vật nào rồi cũng sẽ hóa đá, xa lạ với chính người dân. Một xã hội thiếu khả năng kết nối với những giá trị được truyền từ thế hệ trước – sẽ rất khó xây dựng được sự đồng thuận, bản lĩnh và chiều sâu văn hóa cần thiết để phát triển. Khi không có sự nâng đỡ từ rường cột văn hóa, các mục tiêu kinh tế – xã hội dễ trở nên xa vời, lạc lõng, và thiếu sức sống.
Và để làm được điều đó, mỗi di sản – dù là kim ấn hai trăm năm tuổi hay một bản nhạc viết tay, một trang nhật ký gia đình – cần được nhìn nhận đúng giá trị, được kể lại bằng tất cả sự khách quan của một cộng đồng biết mình là ai, đến từ đâu và muốn đi về đâu.
Cẩm Hà