Bác sĩ nội trú

Bác sĩ nội trú

bởi

trong
Bác sĩ nội trú

Cuối tháng 8 năm 2021, dịch Covid-19 ở Bình Dương lên đến đỉnh điểm. Số bệnh nhân tử vong ngày một tăng cao. Lực lượng bác sĩ tình nguyện từ phía Bắc vào tăng cường dần kiệt sức. Chúng tôi khá căng thẳng.

Lúc đó Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội quyết định tung vào trận đội dự bị chiến lược: các bác sĩ nội trú. Từ Hà Nội vào đến sân bay Tân Sơn Nhất, các bác sĩ trẻ hành quân thẳng đến điểm nóng của dịch và ngay lập tức bắt tay vào công việc.

Đấy là một trong rất nhiều hình ảnh đẹp về bác sĩ nội trú.

Đã làm trong ngành y, ai cũng yêu quý và trân trọng danh hiệu “bác sĩ nội trú”. Lực lượng này đang đảm nhận những công việc khó khăn phức tạp của một ca trực: thăm khám, cho thuốc, thực hiện thủ thuật phẫu thuật, theo dõi, dặn dò bệnh nhân. Hầu hết giáo sư đầu ngành, các giám đốc bệnh viện lớn, lãnh đạo của ngành y… đều xuất thân từ bác sĩ nội trú.

Người ngoài không phải ai cũng hay biết trong ngành y tồn tại một lực lượng tinh nhuệ như vậy. Gần đây, khi những hình ảnh về ngày chọn chuyên ngành của các bác sĩ đỗ kỳ thi nội trú (Match Day) được chia sẻ, dư luận rất quan tâm. Nhưng không phải ai cũng hiểu tường tận về bác sĩ nội trú.

“Bác sĩ nội trú” là cụm từ nói tắt của “bác sĩ nội trú bệnh viện”. Đó là những người thường trú trong viện. Các bác sĩ khác mỗi tuần trực một đến hai ngày, còn bác sĩ nội trú có thể trực đến bảy ngày. Các bệnh viện có phòng dành riêng cho các bác sĩ này, vì thế mới gọi là “nội trú”.

Đào tạo bác sĩ nội trú là một đặc sản của hệ thống y tế Pháp. Sinh viên y khoa sau khi học xong 6 năm đầu phải tham gia một kỳ thi xếp hạng quốc gia, sau đó tuỳ kết quả sẽ được học một chương trình nội trú chuyên khoa sâu (DES – Diplôme d’Études Spécialisées). Chương trình có thể kéo dài 3-6 năm. Khi tốt nghiệp, họ được cấp bằng tiến sĩ y khoa (Doctor of Medicine), là bác sĩ chuyên khoa sâu, có kiến thức và tay nghề ở mức độ cao. Mô hình này sau đó lan sang các nước khác và thành một thông lệ trong đào tạo y khoa của các quốc gia Âu Mỹ.

Hệ thống đào tạo sau đại học của ngành y Việt Nam rắc rối hơn. Năm 1974, trường Đại học Y Hà Nội lần đầu tiên mở chương trình nội trú bệnh viện theo mô hình của Pháp, chủ yếu do nhu cầu cấp thiết về đào tạo sau đại học.

Năm 1975, ngành y đưa ra hệ thống sau đại học là bác sĩ chuyên khoa cấp 1 và cấp 2, được thiết kế theo mô hình của Liên Xô. Bác sĩ chuyên khoa cấp 1 được thiết kế tương đương phó tiến sĩ, bác sĩ chuyên khoa cấp 2 tương đương tiến sĩ.

Đến năm 1998, theo Luật Giáo dục, ngành y có thêm hệ sau đại học là Thạc sĩ y khoa và Tiến sĩ y khoa. Thật là rối và loạn bằng cấp. Sau một thời gian, hệ thống được sắp xếp lại như sau: Hệ bác sĩ chuyên khoa 1 và 2 thiên về thực hành, còn hệ thạc sĩ – tiến sĩ thiên về nghiên cứu. Bác sĩ chuyên khoa 1 và 2 có thể chuyển đổi thành thạc sĩ – tiến sĩ nếu học bổ sung các môn còn thiếu. Các bác sĩ vẫn chuộng bằng thạc sĩ – tiến sĩ hơn vì thuộc hệ thống bằng cấp quốc gia, và có thể tiến lên các học hàm khác như phó giáo sư, giáo sư y khoa.

Tuy nhiên trong một xã hội trọng bằng cấp khoa cử thì chất lượng thực của các bằng sau đại học vẫn có nhiều điều tiếng. Hệ đào tạo bác sĩ chuyên khoa 1, 2 tuyển sinh ồ ạt, học viên ít thực hành. Hệ thạc sĩ – tiến sĩ cũng có những vấn đề về chất lượng luận án.

Giữa những thị phi, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú vẫn giữ được uy tín chất lượng. Các bác sĩ trẻ sau khi đậu vào nội trú được sự rèn cặp của các thầy và đồng nghiệp đàn anh, sống trong môi trường bệnh viện 24/7, liên tục được bổ sung lý thuyết và thực hành tay nghề. Trong ngành y, quý nhất là thực hành. Lý thuyết học ở đâu cũng được, nhưng tay nghề thì phải có người bệnh, có thầy, có bệnh viện. Trải qua hàng nghìn ca bệnh, trình độ bác sĩ nội trú sẽ lên nhanh, và đến năm cuối thì gần như họ đã là lực lượng lao động chính trong khoa.

Các bác sĩ nội trú sau khi tốt nghiệp có thể được cấp cùng lúc ba bằng: bằng bác sĩ nội trú, bằng bác sĩ chuyên khoa cấp 1 và bằng thạc sĩ y khoa. Họ là lực lượng y tế chất lượng cao mà nhà tuyển dụng nào cũng muốn có.

Từ mô hình đào tạo bác sĩ nội trú, tôi thấy rút ra hai vấn đề:

Thứ nhất, sự phân chia giữa bác sĩ thực hành với bác sĩ lý thuyết có vẻ không ổn. Trong y khoa lý thuyết kết hợp nhuần nhuyễn với thực hành. Khó có thể gọi là bác sĩ giỏi khi mà chỉ giỏi thực hành còn lý thuyết lơ mơ, ngoại ngữ không biết, và ngược lại.

Cách phân biệt bác sĩ thực hành và bác sĩ nghiên cứu của Việt Nam có lẽ bắt nguồn từ sự hiểu nhầm hai học vị: tiến sĩ y học lâm sàng, MD (Doctor of Medicine) phải xuất thân từ bác sĩ, được quyền khám chữa bệnh. Cũng có lúc “Doctor of Medicine” được dịch là bác sĩ, thì chưa thấy hết ý nghĩa của cụm từ này. Còn tiến sĩ nghiên cứu PhD (Doctor of Philosophy) chuyên nghiên cứu về y sinh, có thể không xuất phát từ bác sĩ mà có bằng cử nhân và thạc sĩ thuộc lĩnh vực y sinh, và không được phép chữa bệnh. Trên thế giới, người có cả hai loại bằng này, MD và PhD, là những chuyên gia rất giỏi, vừa nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, vừa thực hành lâm sàng trong bệnh viện.

Cần phải định vị lại hệ thống đào tạo sau đại học của ngành y cho tương thích với Luật Giáo dục, không thể tiếp tục tình trạng cấp 3 bằng một lúc hoặc cấp những bằng không có trong luật. Đến nay thời gian đã đủ để chúng ta rút ra kết luận vừa phù hợp với thông lệ của các nước tiên tiến, vừa tuân thủ Luật Giáo dục.

Thứ hai, bác sĩ nội trú là một mô hình đào tạo bác sĩ chất lượng cao, vậy tại sao không nhân rộng mô hình này cho xã hội được hưởng lợi. Chúng ta phải tiến đến chỗ tất cả sinh viên y khoa năm cuối đều phải trải qua kỳ thi nội trú. Ai rớt kỳ thi nội trú thì nhận bằng bác sĩ gia đình, về công tác ở y tế cơ sở. Còn lại tất cả đều phải được đào tạo chuyên khoa tiếp theo 3-6 năm để sản phẩm ra trường là những bác sĩ giỏi.

Chương trình đào tạo y khoa như thế rất dài, gây ra nhiều áp lực tài chính. Vì vậy sau khi đỗ vào nội trú, bác sĩ sẽ được hưởng lương. Điều này cũng công bằng cho các bác sĩ trẻ, khi họ phải hy sinh tuổi xuân, suốt ngày vùi đầu trong bệnh viện.

Cuối cùng, sau khi nghe tôi ca ngợi bác sĩ nội trú, hẳn nhiều bạn sẽ nghĩ tôi cũng là bác sĩ nội trú. Nhưng tôi không có được vinh dự đó. Hồi tôi đi học, tiêu chuẩn để được thi nội trú rất khắt khe, mà tôi thì ngay từ năm thứ nhất trường y đã có một môn thi lại, nên không được thi bác sĩ nội trú vào năm cuối. Dù cho sau này, tôi có học lên thạc sĩ và tiến sĩ, giấc mơ thi bác sĩ nội trú của tôi mãi vẫn là một giấc mơ.

Quan Thế Dân