Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự với 429/439 đại biểu tham gia biểu quyết bấm nút tán thành (tỷ lệ 89,75%). Luật có hiệu lực thi hành từ 1/7.
Một trong những sửa đổi đáng chú ý của Luật này là bỏ án tử hình với 8 tội danh, gồm: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội phá hoại cơ sở vật chất – kỹ thuật của Nhà nước; Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược; Tội gián điệp; Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Tội tham ô tài sản; Tội nhận hối lộ.
Việc giảm hình phạt tử hình trong quy định của pháp luật cũng như thực tế thi hành trên thế giới là phổ biến. Trong 193 quốc gia là thành viên của Liên Hợp Quốc, chỉ còn hơn 50 nước quy định về hình phạt tử hình. Việt Nam chúng ta cũng theo xu hướng này với một lộ trình hợp lý tùy thuộc vào tình hình kinh tế – xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tại Bộ luật Hình sự năm 1985 có 44 tội có hình phạt tử hình, đến Bộ luật Hình sự năm 1999 còn 29 tội có hình phạt tử hình, Bộ luật Hình sự sửa đổi năm 2009 còn 22 tội có hình phạt tử hình, đến Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ còn 18 tội có hình phạt tử hình, và với việc bỏ 8 tội danh có hình phạt tử hình lần này thì số lượng tội phạm có hình phạt cao nhất là tử hình chỉ còn 10 tội danh.

Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự và Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7 (Ảnh: Media Quốc hội)
Việc bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh lần này đã được thảo luận rất kỹ lưỡng cả về lý thuyết và thực tiễn, thể hiện một sự nhất quán trong chính sách hình sự của nước ta, đồng thời có điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới đã được tổng kết qua thực tiễn.
Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền dân sự và chính trị xác định: “Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất”. “Tội ác nghiêm trọng nhất” thường được hiểu là những tội phạm trực tiếp xâm hại đến tính mạng con người với động cơ và mục đích rõ ràng, man rợ, và những kẻ phạm tội nếu còn tồn tại sẽ là mối đe dọa lớn với cộng đồng, vì thế cần phải loại khỏi xã hội loài người, chẳng hạn như tội giết người hàng loạt, tội diệt chủng…
Hình phạt là một biện pháp không thể thiếu để bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền con người và quyền công dân. Mặc dù vậy, hình phạt không phải để trả thù. Trong nhà nước pháp quyền, trong một xã hội văn minh, mục đích của hình phạt trước hết là để giáo dục người phạm tội, qua đó giáo dục mọi người trong cộng đồng xã hội ý thức thượng tôn luật pháp. Hình phạt có mang đặc tính trừng trị nhưng trừng trị cũng là để giáo dục, để phòng ngừa chung.
Việc xác định tính nguy hiểm của hành vi – căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt – không chỉ dựa trên những biểu hiện khách quan của hành vi phạm tội mà còn dựa vào động cơ, mục đích của người phạm tội. Chẳng hạn đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, là một hành vi nguy hiểm vừa qua xảy ra khá nghiêm trọng, nhưng mục đích của người phạm tội là kiếm lời bất chính và trong nhiều trường hợp đó là những mặt hàng kém chất lượng mà kẻ phạm tội đã lừa dối khách hàng về chất lượng và tác dụng của nó. Người phạm tội không có động cơ, mục đích giết người. Vì vậy việc bỏ án tử hình là phù hợp.
Tội vận chuyển trái phép chất ma túy lại xuất phát từ thực tiễn là tỷ lệ án tử hình có đến hơn 80% là tội phạm về ma túy, trong đó Tội vận chuyển trái phép chất ma túy thường được thực hiện bởi những người nghèo khó, hiểu biết hạn chế ở những vùng sâu vùng xa. Việc bỏ án tử hình với tội danh này, mở ra cơ hội cho người trót phạm tội được sống, được trở về với xã hội hơn nữa họ có thể rút ra khỏi đường dây tội phạm và tố giác, phối hợp với cơ quan điều tra bắt giữ được những kẻ chủ mưu, cầm đầu đường dây buôn bán ma túy.
Riêng với Tội tham ô, Tội nhận hối lộ là những tội danh điển hình của tội phạm tham nhũng, việc bỏ án tử hình cũng đã được cân nhắc rất kỹ thông qua nhiều cuộc thảo luận cả trong và ngoài nghị trường.
Cần khẳng định rằng mục đích của Tội tham ô và Tội nhận hối lộ là lợi ích vật chất và lợi ích phi vật chất, trong đó lợi ích vật chất là chủ yếu, vì vậy hình phạt phải tập trung triệt tiêu động cơ phạm tội này bằng cách đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp để thu hồi triệt để tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Mặt khác cũng có thể thấy rằng tình trạng tham nhũng hiện nay, bên cạnh nguyên nhân là sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của những kẻ vi phạm, có nguyên nhân từ những bất cập trong công tác quản lý, kiểm soát việc thực hiện quyền lực của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống công quyền và đôi khi cả những yếu tố phong tục tập quán.
Xử lý tham nhũng một cách kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kỳ ai, bất kỳ ở cương vị nào nhưng cũng bảo đảm tính nhân văn và xem xét toàn diện; trị một người để cứu muôn người, xử lý một vụ việc để cảnh tỉnh cả một vùng, một lĩnh vực. Chống tham nhũng không làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là cuộc chiến cam go, cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sử dụng đồng bộ các giải pháp với bước đi thích hợp. Chú trọng thu hồi tài sản là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện qua các văn bản cũng như chỉ đạo thực hiện trên thực tế, đã mang lại hiệu quả thiết thực bằng những con số cụ thể về tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đáng kể trong thời gian gần đây.
Chỉ thị số 04-CT-TW ngày 2/6/2021 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đã nhấn mạnh:
“Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt trong quá trình thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng… Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong tỏa…”
Điều đó không chỉ bảo đảm đúng ý nghĩa của hình phạt mà còn tạo cơ hội cho những người phạm tội chủ động, tích cực nộp lại tài sản đã chiếm đoạt và bồi thường những hậu quả do hành vi tội lỗi của mình gây ra, phần nào chuộc lại lỗi lầm để hoàn lương tái hòa nhập cộng đồng.
Sau khi bỏ hình phạt tử hình, nhằm bảo đảm thu hồi tài sản do phạm tội mà có, đồng thời khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo trong quá trình giải quyết vụ án, dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 63 theo hướng: “Người bị kết án tù chung thân về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ chỉ có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt khi đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư (3/4) tài sản tham ô, nhận hối lộ và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.
Trong diễn biến xét xử vụ án xảy ra tại Tập đoàn Phúc Sơn, việc các bị cáo đã nộp lại hơn 220 tỷ đồng để khắc phục hậu quả, thậm chí có bị cáo còn chủ động nộp nhiều hơn số tiền chiếm đoạt mà cơ quan điều tra đã kết luận, cho thấy hiệu quả và ý nghĩa của việc chú trọng thu hồi tài sản.
Có thể khẳng định rằng việc bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự vừa được Quốc hội thông qua, một mặt vẫn bảo đảm được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, mặt khác thể hiện tính nhân văn trong chính sách hình sự của Việt Nam theo một lộ trình thích hợp, góp phần đáp ứng yêu cầu hợp tác, mở rộng quan hệ quốc tế để phát triển đất nước.
Tác giả: TS Đinh Văn Minh, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Thanh tra Chính phủ) là cán bộ đã có hơn 34 năm công tác trong ngành Thanh tra; trong đó 16 năm làm công tác nghiên cứu khoa học, từng giữ chức Viện trưởng Viện chiến lược và khoa học thanh tra; thời gian còn lại ông gắn bó với công tác pháp chế, tham gia quá trình soạn thảo Luật Phòng chống tham nhũng và các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức.
Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!