Nghệ sĩ Hữu Châu cho rằng một số người thờ Tổ sân khấu dù tuổi nghề chỉ vài tháng, không hiểu quy tắc, tôn ti trật tự.
Nghệ sĩ Hữu Châu ra sách Chiếc nôi vàng giông bão – dự án anh ấp ủ nhiều năm qua, do tác giả Thanh Thủy chấp bút. Sách gồm tám phần với 40 chương, bao quát một đời làm nghề của Hữu Châu, từ thuở ấu thơ đến khi trở thành gương mặt kỳ cựu của sân khấu miền Nam. Dịp này, VnExpress đăng một số trích đoạn, tên các phần do tòa soạn đặt.

Hữu Châu trong bộ ảnh giới thiệu sách mới. Ảnh: Quốc Huy
Hai bức màn nhung
Hai bức màn nhung – nơi mở ra và khép lại, kết nối và ngăn cách giữa nghệ sĩ và khán giả, giữa ảo và thực, giữa truyện và đời…
Khi hai bức màn nhung mở ra, để khán giả chìm đắm cùng nghệ sĩ với cuộc phiêu lưu trong vài tiếng đồng hồ, không phân biệt sân khấu hay cuộc đời.
Khi hai bức màn nhung khép lại, hòa vào nhau, nó là biên giới của cuộc chia ly giữa nghệ sĩ và khán giả. Cả hai bên chấm dứt mộng tưởng và phiêu du, cùng chia tay với nhân vật để trở về đời thực.
Tuy nhiên, sân khấu không chỉ có một bức màn nhung, với hai cánh bướm nhẹ nhàng lả lướt mê hoặc, làm chứng nhân cho cuộc gặp gỡ nghệ sĩ khán giả.
Trong hậu trường còn một bức màn nhung khác, tiêu biểu cho sự TÔN NGHIÊM của nghề ca hát biểu diễn. Đó là bức màn nhung trên bàn thờ Tổ.
Ngày xưa khi tới giờ diễn, có ba hồi trống nổi lên:
– Bum bum bum…
Giòn giã.
Cùng với người kéo màn trên sân khấu, đồng thời trong hậu trường cũng có một người kéo hai cánh màn nhung trên bàn thờ Tổ.
Đã đến giờ Tổ coi hát.
Người nghệ sĩ đồng thời diễn cho Tổ và khán giả cùng coi. Thậm chí có nghệ sĩ có thể quên khán giả trong phút chốc, nhưng luôn luôn canh cánh nhắc nhở mình là Tổ đang chăm chú coi từng điệu bộ cử chỉ, cách họ sống với nhân vật, trên sân khấu, dưới ánh đèn… ra sao.
Họ không được khinh suất một phút giây.
Nhưng không phải nghệ sĩ nào cũng hiểu sự tôn nghiêm đó nên mới có tình cảnh bát nháo, thậm chí nhếch nhác của một số nơi làm giỗ cúng Tổ bây giờ!
Mỗi năm, đến mùa giỗ Tổ sân khấu, tôi thấy nơi nơi, sân khấu nào cũng rộn ràng, đông đúc. Lễ vật ê hề, thậm chí, có nơi heo quay nằm la liệt hàng trăm mâm.
Nghệ sĩ ơi! Ngày giỗ Tổ mà, có phải là ngày sát sinh sát vật đâu.
Dĩ nhiên, có nhiều sân khấu ấm tình, thanh bạch, đầy không khí sẻ chia yêu thương.
Bây giờ, còn có trào lưu nghệ sĩ nào cũng thờ Tổ, dù tuổi nghề chỉ mới vài tháng vài năm. Có người để bàn thờ Tổ trong phòng ngủ, họ ăn ở hồn nhiên, hớ hênh, đi vắng đi làm đi chơi suốt ngày, “bàn thờ” khô queo, bụi bặm, không có nổi một chén nước.
Họ không nhớ, nghề nào cũng có những quy tắc và tôn ti trật tự có khi bất thành văn.
Theo tôi được dạy, được hiểu, việc thờ Tổ, đặt bàn thờ Tổ phải do những nghệ sĩ tiền bối, những người có dòng dõi “bầu gánh”, “hậu tổ” mới có thể chủ trì. Dĩ nhiên mỗi nghệ sĩ đều có vị trí riêng, có duyên nghiệp và đời nghề rất khác nhau. Nhưng ai ai cũng đều có thể bày tỏ lòng thành kính với Tổ nghiệp, chỉ cần đừng hiểu lệch lạc việc thờ Tổ và đừng quá khoe mẽ, phô trương hình thức.
Càng ngày những cách nghĩ kiểu mê tín dị đoan, các kiểu hù dọa tâm linh càng nhiều, như đi hát không được ăn mía, không được cúng trái lựu…
Đây là một chủ đề quá rộng lớn và nhạy cảm nên tôi chỉ có thể nói tới mức nầy thôi.
Tôi trải qua ngàn trầm luân trong nghề. Ngoài hai bức màn nhung sân khấu, tôi còn một bức màn nhung riêng nữa. Đó là nơi tôi lặng lẽ ngồi yên, êm ấm và an toàn như một con tằm nằm trong kén. Nơi đó gói ghém những khát vọng thầm kín của tôi, gần như chứa đựng hết tâm tư của tôi về nghề nghiệp.
Đó là những lúc tôi sung sướng hay mệt mỏi sau khi đi làm, sau khi trả vai một nhân vật vất vả.
Tôi về nhà, lặng lẽ thắp hương trên bàn thờ ông bà, rưng rưng nhìn ngắm chiếc khánh tổ “Khánh ngọc Dạ Minh Châu” bảo vật của gia tộc không còn nguyên vẹn qua báo biến thiên thời cuộc và biến cố gia đình. Tôi ngồi khuất sau bàn thờ, thu mình, tự thấy bình yên, ấm áp và nhỏ bé trước anh linh của Ông Bà Nội, Má Ba, Ba Thình, anh Hải, em Hữu Lộc,… Thật sự đó là nơi dựa dẫm và thầm thì. Không còn thấy gánh nặng phải thể hiện rạng rỡ gia tộc tông môn chi nữa, chỉ cảm nhận rất rõ sự vỗ về yêu thương.
Phải, dưới bàn thờ một gia tộc “hậu tổ” của cải lương, tôi thấy mình được bao bọc.
Khi đứng trước bức màn nhung hậu trường, tôi còn tưởng nhớ ba người thân yêu của mình nữa. Đó là Má Ba, chú Út, Hữu Lộc. Không hẳn vì tâm linh huyền bí, không phải để nương nhờ hay gởi gắm, chỉ là vì lòng tôi luôn nhớ họ, nhớ không nguôi.
Tôi còn thầm kín, vô cùng thầm kín mơ ước về một vị khán giả vô cùng đặc biệt.
Tôi mơ, khi bức màn nhung riêng tư của tôi mở ra, tôi trông thấy vị đó.
Má Ba Nữ hoàng của lòng tôi sẽ ngồi coi tôi diễn. Má Ba mặc đồ tuồng, tuồng gì cũng được, cổ trang hoàng hậu, quân phục Hoa Mộc Lan, hay áo dài hay bà ba thôn nữ hay sơn nữ Phà Ca… Má Ba ở hàng ghế đầu, đôi môi trái tim cười hiền dịu, sẽ vỗ tay, sẽ dịu dàng và bao dung và cả nghiêm khắc với tôi. Tôi mơ ước mãnh liệt về điều hoang tưởng đó. Má Ba, vị hậu tổ của riêng tôi. Gần như những người thân yêu trong nhà đều có dịp coi tôi làm nghề. Bà Nội những ngày cuối đời, dù đau ốm, cũng đã thấy tôi trên tivi. Chú Sáu Bảo Quốc tới tận rạp coi tôi… Chỉ có một khán giả… thì chưa bao giờ, dù tôi đã ngàn lần say sưa ngắm Người trên sân khấu.
Vì Người đã nằm xuống khi tôi chưa thành nghệ sĩ. Vì Người đã VĨNH VIỄN rời bỏ sân khấu. Vì người đã xong sứ mệnh, xong việc, không bao giờ trở lại “thánh đường” nữa.
Người đã vĩnh viễn từ biệt hai bức màn nhung.
* Tổ nghề sân khấu (còn gọi là Tổ nghiệp sân khấu) là một khái niệm của giới nghệ sĩ Việt Nam gán cho một nhân vật có thật hoặc hư cấu. Việc tổ chức giỗ Tổ nghề sân khấu hằng năm được xem là hoạt động tâm linh quan trọng của những người làm nghệ thuật với mục đích tưởng nhớ những bậc tiền bối hoặc những người có công lao lớn trong ngành nghệ thuật đó.
Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của việc giỗ Tổ sân khấu và cả nhân vật được cho là Tổ nghề sân khấu. Tuy nhiên truyền thuyết được nhắc đến nhiều nhất là về “Hai hoàng tử mê hát”. Truyền thuyết kể lại rằng vì hiếm muộn nên để tạ ơn trời đất đã ban cho mình hai đứa con, nhà vua bèn lập đoàn hát biểu diễn trong cung ca ngợi công ơn trời đất. Tuy nhiên, hai vị hoàng tử này tỏ ra quá đam mê xem ca hát. Một hôm, họ lén vua cha đi xem hát rồi say mê đến nỗi quên ăn, quên ngủ, kiệt sức và cùng nhau chết. Người nghệ sĩ đã mượn truyền thuyết về hai vị hoàng tử này làm hai vị thần phù hộ cho nghề hát và ngày mất của hai vị trở thành ngày giỗ Tổ. Nghệ sĩ Nhân dân Đinh Bằng Phi cho rằng những giai thoại này được đặt ra chỉ nhằm để “tạo sự tin tưởng”, ông Tổ này là vô danh, và nói rằng tất cả những nghệ sĩ trong ngành nghệ thuật sân khấu đều tự coi bản thân mình là con cháu của “ông Tổ”.
(Nguồn Wikipedia)
Có giai thoại chính và có cả các giai thoại bổ sung vẫn được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Nhưng dù giai thoại nào, có thể chưa thống nhất thì vẫn phải khẳng định đó là một ngày truyền thống, ý nghĩa của giới sân khấu.
(Phó Giáo sư Tiến sĩ Nghệ thuật học Nguyễn Thị Minh Thái)
Trong hậu trường của các gánh hát, các sân khấu từ xưa đến nay luôn có một bàn thờ gần nơi cánh gà, trong bàn thờ thường đặt bài vị hoặc cốt tượng của Ông, hai bên thường thấy treo hai câu đối: “Tổ truyền thiện nghệ thiên thu thịnh” và “Sư giáo tài năng vạn đại xuân”. Các nghệ sĩ thường vái lạy bàn thờ Tổ trước khi ra diễn, đa số không rõ tên tuổi ông Tổ như thế nào, họ chỉ biết rằng từ khi vào nghề đã được các tiền bối dạy bảo rằng phải hết sức tôn trọng và biết ơn Tổ nghiệp. Tổ nghiệp của nghệ thuật sân khấu gồm ba vị là Tiên sư, Tổ sư và Thánh sư, gọi chung là Tam giáo Đạo sư hoặc Tam vị Thánh Tổ. Trong đó Tiên sư là vị khai sáng ra nghề, Tổ sư là người tiếp nối, lưu truyền nghề và Thánh sư vị soạn tuồng có tài văn chương.
(Theo NSND Thành Tôn)
, Còn tiếp
(Trích sách Hữu Châu – Chiếc nôi vàng giông bão)
Hữu Châu 59 tuổi, là một trong những nghệ sĩ thuộc thế hệ vàng của sân khấu kịch TP HCM thập niên 1990. Cùng Thành Lộc, Hữu Châu diễn cho sân khấu kịch Idecaf từ cuối những 1990, khi ông “bầu” Huỳnh Anh Tuấn mới thành lập, mặt bằng thuê ở Viện trao đổi văn hóa với Pháp. Anh đóng nhiều tác phẩm, từ kịch thiếu nhi (series Ngày xửa ngày xưa), kịch người lớn (Tấm Cám, , ), chính sử (, Ngàn năm tình sử).
Cuối thập niên 1990 – đầu 2000, Idecaf thổi luồng gió mới vào kịch nói Sài Gòn, với loạt vở ăn khách. Trong đó, Hữu Châu, Thành Lộc được khán giả và giới chuyên môn xem là tên tuổi trụ cột của điểm diễn. Từ năm 2023, anh gia nhập sân khấu Thiên Đăng – sàn diễn mới thành lập. Anh còn đóng điện ảnh với các phim Lô tô (2017), (2019), (2024), (2025) cùng loạt phim truyền hình.