
Xét nghiệm của tôi gần đây ghi nhận mỡ máu cao nhưng tôi chưa rõ cụ thể chỉ số nào mới thật sự nguy hiểm và bao nhiêu là cao? Nhờ bác sĩ tư vấn. (Nguyễn Minh Hải, 42 tuổi, Hà Nội)
Trả lời:
Mỡ máu là các chất béo trong máu bao gồm cholesterol và triglyceride. Các chỉ số này tăng hoặc giảm bất thường được gọi là rối loạn lipid máu hay rối loạn mỡ máu. Kết quả xét nghiệm mỡ máu gồm nhiều chỉ số quan trọng. Mỗi con số phản ánh một khía cạnh khác nhau về tình trạng chuyển hóa chất béo trong cơ thể, đều liên quan mật thiết đến nguy cơ bệnh tim mạch. Cụ thể, khi làm xét nghiệm, người bệnh sẽ nhận được 4 chỉ số chính:
Cholesterol toàn phần bình thường khi dưới 5,2 mmol/L. Nếu chỉ số này trong khoảng 5,2-6,2 mmol/L là giới hạn cao, trên 6,2 mmol/L là cao rõ rệt, nguy cơ tim mạch bắt đầu tăng nhanh.
Cholesterol xấu (LDL) là thành phần nguy hiểm nhất trong các chỉ số mỡ máu. Ở người khỏe mạnh, chỉ số LDL nên dưới 3,0 mmol/L. Nếu từ 3,4 mmol/L trở lên được coi là cao, trên 4,1 mmol/L rất cao, làm tăng rõ nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Với người từng mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ, LDL cần duy trì thấp hơn 1,8 mmol/L để phòng biến chứng.
Cholesterol tốt (HDL) có tác dụng bảo vệ mạch máu. Ở nam giới, nếu HDL dưới 1,0 mmol/L và ở nữ dưới 1,3 mmol/L là thấp, làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch và bệnh tim mạch sớm.
Triglyceride là một dạng chất béo trong máu, được cơ thể tạo ra từ năng lượng dư thừa, nhất là sau khi tiêu thụ nhiều tinh bột, đường, rượu bia. Ở người khỏe mạnh, chỉ số triglyceride nên dưới 1,7 mmol/L. Nếu chỉ số này trong khoảng 1,7-2,2 mmol/L là cao nhẹ, từ 2,3 mmol/L trở lên là cao. Đặc biệt khi triglyceride vượt quá 5,6 mmol/L, nguy cơ viêm tụy cấp, bệnh tim mạch tăng rõ rệt.
Những thành phần như và triglyceride nếu tăng cao bất thường sẽ âm thầm tích tụ trên thành mạch máu, lâu dần hình thành mảng xơ vữa, thu hẹp lòng mạch, cản trở lưu thông máu. Ngược lại, cholesterol tốt đóng vai trò bảo vệ, vận chuyển bớt cholesterol dư thừa từ máu về gan để xử lý, hạn chế sự tích tụ của mỡ xấu trong lòng mạch. Song nếu nồng độ của chúng quá thấp thì khả năng bảo vệ này suy giảm. Hậu quả là làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Ngoài ra, tình trạng này còn có thể gây tăng huyết áp, làm tổn thương thận, ảnh hưởng đến chức năng gan, rối loạn chuyển hóa đường huyết, dẫn đến tiền đái tháo đường hoặc đái tháo đường type 2.
Nhóm dễ bị là người ít vận động, thường xuyên ăn nhiều đồ chiên rán, mỡ động vật, uống nhiều rượu bia, thức khuya và chịu căng thẳng kéo dài. Người có yếu tố di truyền, béo bụng, tuổi cao hoặc mắc các bệnh nền cũng thuộc nhóm nguy cơ cao.
Điều đáng lo ngại là rối loạn mỡ máu thường không gây triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu. Phần lớn người bệnh chỉ phát hiện tình cờ qua xét nghiệm định kỳ hoặc khi xuất hiện biến chứng nguy hiểm như nhồi máu cơ tim, đột quỵ. Vì vậy, người trưởng thành từ 30 tuổi trở lên nên kiểm tra mỡ máu định kỳ ít nhất mỗi năm một lần, đặc biệt với người có yếu tố nguy cơ như hút thuốc, béo bụng, ít vận động hoặc có tiền sử bệnh tim mạch. Ngay cả khi chỉ số BMI bình thường, người bệnh vẫn có thể bị rối loạn mỡ máu và tiềm ẩn nhiều biến chứng nguy hiểm nếu không kiểm soát kịp thời.
ThS.BS Đỗ Thị Thảo
Khoa Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội
Độc giả gửi câu hỏi về bệnh tim mạch để bác sĩ giải đáp |