
Năm 1991 tôi sang Moskva theo một chương trình thực tập, đúng thời điểm Liên Xô tan rã. Tôi vô tình chứng kiến một cuộc biến đổi lớn lao của lịch sử thế giới trong thế kỷ 20.
Người Việt khi đó đứng trước ngã ba đường. Một số ít về nước. Số khác nhập vào làn sóng vượt biên sang Đức tị nạn. Còn đại bộ phận vẫn bám trụ ở nước sở tại xem tình hình ra sao. Tôi quyết định ở lại, nhưng không ở Nga mà sang Ba Lan do có người quen bên đó.
Sang Ba Lan, để có cái ăn, tất cả chúng tôi phải lăn vào buôn bán. Cách đơn giản nhất là lấy chịu một ít hàng của chủ người Việt mang ra hè phố bán. Bán hết mới trả tiền gốc, lấy hàng mới. Hàng hóa thường là quần áo, do một vài người đánh từ Việt Nam sang theo đường hàng không.
Lần đầu tiên bán hàng là một trải nghiệm vô cùng ngượng ngập. Chúng tôi chọn vỉa hè đông người, trước cửa metro hoặc cao ốc, trải một tấm bạt xuống đất, đổ quần áo trong túi xách ra và đứng bán. Mẹt hàng của tôi thường đông nghịt người xem hàng, trả giá. Vốn tiếng Nga mấy năm đại học được dịp phát huy tác dụng, vì tiếng Ba Lan và tiếng Nga gần nhau.
Đến tối về nhà trọ, kiểm lại hàng, đếm lại tiền, ngày đầu tôi được hơn 100 USD. Mấy anh bạn còn kiếm nhiều hơn thế. Chúng tôi choáng. Vì mới mấy tháng trước thôi, ở Việt Nam, lương bác sĩ trẻ chúng tôi quy ra có 20 USD/tháng. Thế thì còn sĩ diện gì nữa. Tất cả lao vào bán hàng.
Cả khối Đông Âu khi đó mới thoát thai khỏi nền kinh tế kế hoạch hóa, bước ra kinh tế thị trường. Sức sản xuất đang chuyển đổi, các quầy hàng trống rỗng, chỉ có một ít hàng đắt đỏ nhập từ Tây Âu, người dân thiếu mọi thứ. Nên quần áo người Việt Nam mang đến được họ mua sạch, kể cả những cái may lỗi, còn tua chỉ thừa hoặc lấm bẩn.
Không chỉ Ba Lan mà cả Đông Âu biến thành một cái chợ trời. Việt Nam may mắn chuyển mình sang kinh tế thị trường trước mấy năm, trở thành nguồn hàng cho Đông Âu. Nhiều nhất vẫn là áo gió cho cánh đàn ông, áo sơ mi cổ đăng-ten cho các bà già, áo polo cho thanh niên. Nơi sản xuất thì hoặc là Cổ Nhuế ở phía Bắc, Epco – Minh Phụng nếu đánh hàng từ phía Nam… Nhãn mác đủ cả: Adidas, Nike, cá sấu Lacoste, muốn gì có nấy.
Buôn bán như thế một thời gian, tích lũy được số vốn, một số người nhanh nhạy chuyển sang nhập khẩu trực tiếp từ Việt Nam, bằng cả container đường biển. Mạng lưới nhập khẩu và phân phối hàng Việt Nam ở Đông Âu do người Việt vận hành từng bước hình thành.
Người Việt ở Đông Âu giàu lên nhanh chóng vì buôn bán rất thuận lợi mà hầu như không mất tiền thuế (do giá khai báo nhập khẩu rất thấp), chỉ mất tiền vận chuyển và kho bãi. Chính quyền nước sở tại có biết không? Chắc chắn là họ biết nhưng mắt nhắm mắt mở làm ngơ đi. Vì người Việt Nam chăm chỉ kiếm sống, ít dính dáng vào các tổ chức tội phạm. Các chú cảnh sát Ba Lan hiền lành cũng không hoạnh họe chúng tôi về hộ chiếu hay giấy phép bán hàng, chỉ đứng ngó nghiêng từ xa. Thậm chí cảnh sát còn trông coi trật tự cho chúng tôi bán hàng, bảo vệ chúng tôi khi có các tổ chức đầu trọc trấn hàng cướp tiền.
Vì sao chính quyền lại làm ngơ như thế? Vì lúc đó họ hiểu và thực thi rất khôn ngoan cái mà các nhà kinh tế gọi là “kinh tế vùng xám”. Người Việt lúc đó đang đáp ứng nhu cầu hàng thiết yếu cho người dân sở tại. Thậm chí chính quyền còn ngầm ủng hộ khuyến khích người Việt mở rộng buôn bán, biến Ba Lan thành đầu cầu cho hàng hóa từ Đông Nam Á vào Đông Âu. Họ biết chính phủ trung ương có thể không thu được thuế, nhưng tiền sẽ chảy vào túi các thương nhân người Ba Lan, rồi cuối cùng thì cũng dân giàu nước mạnh.
Nhưng sau ít năm, thị hiếu của người dân sở tại thay đổi. Các loại hàng hóa rẻ tiền của Việt Nam không được ưa chuộng nữa. Chúng ta đã chậm cải tiến mặt hàng, đánh mất một thị trường Đông Âu rộng lớn. Chúng tôi ở bên đó chuyển sang bán các mặt hàng cao cấp hơn, như quần jean Thái, giày dép Trung Quốc, áo len Thổ… Các chủ hàng người Việt bây giờ ra dáng thương nhân quốc tế, bay đi các nước ký kết nhập hàng.
Lúc này tôi về nước để tiếp tục đi làm. Bạn bè vẫn ở lại buôn bán cho biết các chợ Ba Lan cũng từ từ thay đổi. Không còn cảnh trải mẹt hàng xuống đất nữa mà đã có các kios đàng hoàng. Thương nhân xuất nhập khẩu dần quen với việc đóng thuế đầy đủ. Ở các chợ lẻ cũng phải lấy hóa đơn mua hàng. Chính quyền đưa dần các hoạt động kinh tế vùng xám vào khuôn khổ. Giai đoạn “chợ trời” của kinh tế Đông Âu cũng kéo dài đến 15 năm.
Ký ức của tôi sống lại bởi những ngày này, xã hội xôn xao trước tình trạng các chợ, các phố buôn bán nhỏ ở Hà Nội, TP HCM đóng cửa hàng loạt do lo ngại về việc áp dụng chính sách thuế mới cũng như các đợt truy quét hàng giả, hàng thiếu nguồn gốc, xuất xứ. Tôi thấy ta có thể tham khảo các chính sách và bài học cũ.
Thói quen kinh doanh nhỏ lẻ không lấy hóa đơn, cho nợ tiền gối hàng… là tập quán buôn bán từ lâu của người Việt. Trong chuyện đó cần tách biệt hai vấn đề. Một là chuyện hàng giả, hàng nhái. Hai là nghĩa vụ thuế.
Theo quan điểm của tôi nếu là thực phẩm, thuốc chữa bệnh thì tuyệt đối không chấp nhận hàng giả, hàng nhái vì liên quan đến sức khỏe và tính mạng con người. Hàng giả, hàng nhái ở lĩnh vực này cần phạt nặng.
Hàng giả và hàng nhái trong các lĩnh vực khác, như hàng tiêu dùng, cũng cần loại bỏ triệt để, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng và các vấn đề về sở hữu trí tuệ trong kinh tế thương mại ngày càng được chú trọng và bảo vệ. Tuy nhiên, tôi đồng ý với quan điểm cho rằng, vấn đề này nên được xử lý linh hoạt, có lộ trình kéo giãn, cân nhắc đến lịch sử vấn đề phức tạp của văn hóa tiêu dùng ở Việt Nam.
Còn nghĩa vụ thuế, nên có sự phân hóa về mức độ. Trong cuộc sống không bao giờ có thể chỉ trắng đen rõ ràng. Kinh tế cũng vậy, luôn tồn tại vùng xám. Ở cái vùng đó, số tiền thuế cũng không nhiều nếu tính trên tỷ trọng đóng góp vào ngân sách. Theo Cục Thuế – Bộ Tài chính, 3 tháng đầu 2025, tổng thu thuế từ hộ, cá nhân kinh doanh đạt 8.695 tỷ đồng, đã tăng 25,7% so cùng kỳ 2024 nhưng cũng chỉ ở mức 1,5% tổng thu ngân sách từ thuế quý 1/2025.
Khoản thất thu cũng không mất đi đâu, mà nó có tác dụng giúp người dân củng cố cuộc sống, tự tạo công ăn việc làm cho chính mình. Người dân sung túc, chính quyền cũng nhẹ gánh.
Về mặt thị trường, các chợ truyền thống cũng dần thu hẹp lại, hàng hóa cấp thấp và kiểu buôn bán cổ truyền sẽ giảm dần thị phần. Người tiêu dùng chuyển sang lựa chọn siêu thị, cửa hàng tiện lợi với hàng hóa có hóa đơn chứng từ rõ ràng, có máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế. Khi đời sống của người dân được nâng cao, các hình thức bán hàng văn minh dần sẽ chiếm ưu thế.
Hay nói cách khác, cùng với thời gian, sự tiến bộ của xã hội, các hoạt động kinh tế đen sẽ bị triệt tiêu, kinh tế vùng xám sẽ từ từ thu hẹp, vùng kinh tế minh bạch sẽ dần chiếm vị trí chủ đạo. Không nên quá nôn nóng đẩy nhanh sự chuyển đổi để vô tình đẩy một bộ phận kinh tế xám thành kinh tế đen, là điều mà cả người dân và chính quyền không ai muốn.
Quan Thế Dân