Phương án doanh nghiệp tư nhân trong nước làm chủ đầu tư và huy động vốn dưới hình thức tài trợ dự án, có sự tham gia góp vốn của Nhà nước sẽ có tính khả thi, theo Chủ tịch FiinGroup Nguyễn Quang Thuân.
được Quốc hội chốt chủ trương đầu tư vào tháng 11/2024 với tổng vốn sơ bộ khoảng 1,7 triệu tỷ đồng, tương đương 67 tỷ USD. Tuyến đường dài 1.541 km, điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TP HCM), đi qua 20 tỉnh thành.
Theo ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup và FiinRatings, quy mô đầu tư của dự án này “quá lớn với Chính phủ hay bất kỳ doanh nghiệp Việt Nam nào”. Song ông Thuân nói bài toán thách thức nhất không nằm ở vốn hay tiền. Ông cho rằng Việt Nam cần một cơ chế để lựa chọn và triển khai dự án minh bạch, chuyên nghiệp. Đồng thời, nhà điều hành cần cải cách mạnh mẽ thị trường vốn để huy động sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc giải bài toán vốn.
Chủ tịch FiinGroup gợi ý siêu dự án này có thể do doanh nghiệp tư nhân đầu tư theo hình thức tài trợ dự án (Project Finance). Trong đó, Nhà nước sẽ tham gia vào dự án qua các định chế đầu tư như SCIC hoặc doanh nghiệp Nhà nước. Lý do, theo ông Thuân, doanh nghiệp tư nhân lớn sẽ khó huy động được nguồn lực từ các bên khác, nhất là các định chế tài chính, đầu tư trong và ngoài nước, nếu không có Chính phủ tham gia ngay từ đầu.

Tuyến tàu cao tốc Nishi-Kyūshū Shinkansen kết nối tỉnh Saga với Nagasaki, Nhật Bản. Ảnh: Nippon
Thông thường, mô hình chuẩn của tài trợ dự án có 7 bên tham gia. Trong đó, công ty dự án (Project Company hay SPV) là trung tâm và là đơn vị sở hữu tài sản tạo ra từ dự án. SPV có thể do các doanh nghiệp tư nhân lập lên và Nhà nước tham gia góp vốn cùng. Ban đầu, công ty này nên có vốn khoảng 20-25% tổng vốn đầu tư dự kiến, tức là tối thiểu khoảng 12 tỷ USD để huy động, thu hút các bên tham gia.
Chuyên gia của FiinGroup lưu ý mô hình tài trợ dự án sẽ tập trung vào việc huy động vốn cho dự án. Về lý thuyết, một công ty nhỏ cũng có thể đầu tư được dự án quy mô siêu lớn này, miễn là họ có khả năng huy động vốn chủ ban đầu (12 tỷ USD). Tuy nhiên, năng lực tài chính của các doanh nghiệp cũng quan trọng để đảm bảo được mức độ an toàn mà các trái chủ và bên cho vay tham gia mong muốn.
“Mấu chốt là làm sao để công ty dự án (SPV) có thể huy động được 12 tỷ USD ngay từ ban đầu”, ông lưu ý. Do đó, ông Thuân cho rằng Chính phủ có thể giao cho một hoặc một số doanh nghiệp tư nhân đầu tư chính nhưng Nhà nước có thể tham gia góp vốn cùng nếu họ không thể huy động được con số này.
Ngoài SPV, mô hình trên còn có các doanh nghiệp tài trợ (Sponsor) tham gia dự án, có thể là doanh nghiệp tư nhân, cá nhân hay Nhà nước. Chính phủ sẽ tham gia là bên cấp quyền, tạo khung pháp lý và cơ chế cho doanh nghiệp tư nhân (sponsors) thực hiện đầu tư và vận hành dự án.
Bên cho vay gồm các ngân hàng thương mại, nhà đầu tư quốc tế, tài trợ qua các hình thức khác nhau, gồm trái phiếu dự án. Họ có thể cho vay trực tiếp công ty dự án và các doanh nghiệp khác như nhà cung cấp, nhà thầu, tương tự dự án sân bay Long Thành.
Nhà cung cấp thiết bị, phần mềm, nguyên vật liệu là các đơn vị trong và ngoài nước đáp ứng các tiêu chí đưa ra. Nhà thầu xây dựng tham gia thầu chính, phụ hoặc liên kết với các đơn vị thi công có kinh nghiệm. Đơn vị vận hành có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc đơn vị chuyên nghiệp quốc tế. Ngoài ra, dự án sẽ có bên bao tiêu đầu ra, chính là khách hàng, người dân.
Về cấu trúc nguồn vốn nợ vay còn lại (50 tỷ USD), ông Thuân cho rằng Việt Nam có thể cân nhắc phân chia từ nhiều nguồn. Số này gồm 30% vay ngân hàng thương mại (khoảng 15 tỷ USD), tương đương khoảng 2% tổng dư nợ toàn bộ hệ thống ngân hàng hiện nay.
Khoảng 20% sẽ huy động qua trái phiếu hạ tầng cho các định chế tài chính – đầu tư – bảo hiểm trong nước. Ví dụ, khoảng 5 tỷ USD có thể huy động từ quỹ và định chế bảo hiểm, tương đương khoảng 10% tổng quy mô tài sản do các ngành này quản lý. Tuy nhiên, nhà điều hành cần cải cách thị trường vốn, sửa điều kiện phát hành cho các doanh nghiệp tham gia, tạo cơ chế đầu tư dài hạn cho các nhà đầu tư.
Hiện, các doanh nghiệp bảo hiểm có tổng tài sản khoảng 35 tỷ USD nhưng phần lớn chỉ đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Tương tự, ngành quản lý quỹ quy mô khoảng 30 tỷ USD nhưng quỹ nợ hoặc quỹ hạ tầng còn khiêm tốn. Các quỹ hưu trí tự nguyện ra đời cũng chưa có chính sách hỗ trợ phát triển, quy mô chỉ dừng ở dưới 300 triệu USD. Bảo hiểm Việt Nam đang quản lý gần 40 tỷ USD nhưng chưa được phép đầu tư ngoài trái phiếu Chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Hoặc các định chế đầu tư lớn như SCIC hay doanh nghiệp Nhà nước gần như chưa tham gia vào trái phiếu doanh nghiệp.
“Nhiều giải pháp nhằm khai thông thị trường vốn nội địa chưa có kết quả cụ thể”, ông nói, cho rằng các quy định cần sửa đổi để doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ trái phiếu, quỹ mở có thể tham gia nhiều hơn vào kênh trái phiếu doanh nghiệp.
Tiếp theo, 20% sẽ huy động qua phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, tương đương 10 tỷ USD. Trong đó, khoảng 5 tỷ USD phải có bảo lãnh của Chính phủ, còn lại 5 tỷ USD vay các đối tác truyền thống của Việt Nam như WB và ADB, JBIC…
Với phần vốn nợ và trái phiếu quốc tế này, Chủ tịch FiinGroup đề xuất Chính phủ xem xét bảo lãnh để thu hút nhà đầu tư định chế nước ngoài. Điểm tích cực là tỷ lệ nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 144 tỷ USD, chiếm 30% GPD vào cuối 2024. Mức này còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, chưa kể trong đó có một tỷ lệ đáng kể là vốn vay ưu đãi từ WB và ADB.
Song điều này sẽ làm gia tăng nợ công của Chính phủ, do vậy ông Thuân cho rằng thách thức là làm sao để tăng tỷ lệ nợ công nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và dự án sử dụng vốn thành công, tạo ra nguồn thu để trả nợ. Cùng với đó, Việt Nam cũng phải nâng mức xếp hạng tín nhiệm Quốc gia để góp phần giảm chi phí vốn quốc tế.
Việt Nam đang được các hãng xếp hạng quốc tế xếp ở mức BB+ (mức rủi ro cao). Điều này khiến Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng của Việt Nam vay nước ngoài phải chịu mức lãi suất cao hơn đáng kể so với các nước tương đồng trong khu vực như Malaysia, Philipines, Indonesia, Thailand – vốn đều ở mức BBB- trở lên.
Ngoài ra, 20% sẽ huy động qua trái phiếu hạ tầng với kỳ hạn rất dài cho thị trường trong nước, ví dụ 30-50 năm, thậm chí lên đến 100 năm hoặc loại có kỳ hạn nhưng không có ngày đáo hạn để huy động sự tham gia của người dân, doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
“Đây là một giải pháp quan trọng, giúp thu hút được sự hưởng ứng của người dân nếu dự án được triển khai minh bạch, tường minh”, ông nói và dẫn ví dụ 10 triệu trái chủ tham gia, mỗi người chỉ cần 10.000 USD (khoảng 250 triệu đồng) là đủ số này. Chuyên gia cũng nói thêm rằng bản thân ông, gia đình và công ty “chắc chắn sẽ mua ủng hộ nếu Chính phủ triển khai hình thức trái phiếu này”.
Cuối cùng, 10% còn lại sẽ huy động các nguồn khác.
Phương Dung