Chuyện xưa kể với mai sau

Chuyện xưa kể với mai sau

bởi

trong

Một trong những việc quan trọng nhất, là phải có hiện vật, tư liệu – kho di sản giàu có mà các thế hệ nhà báo lớp trước để lại, nhưng đang bị hỏng hóc, thất tán, mai một, lưu lạc đâu đó vì những nguyên nhân về thời gian, điều kiện khí hậu, bảo quản và những ảnh hưởng, biến động xã hội các thời kỳ… Thiếu vắng những hiện vật giá trị, những tư liệu tin cậy, thì không trưng bày nào có thể kể được câu chuyện nghề báo một cách rành mạch, thuyết phục, hấp dẫn, sinh động được!

Sưu tầm vì thế đã trở thành bài học đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên, thường xuyên, không có điểm dừng đối với bất cứ bảo tàng nào, trong đó có Bảo tàng Báo chí.

Một hồ sơ hiện vật có lúc cần đến 8 – 10 năm để hoàn thành

Thành công lớn nhất năm 2024 vừa qua của Bảo tàng Báo chí VN là đã khánh thành được công trình tu bổ, tôn tạo Di tích quốc gia Địa điểm Trường Dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng năm 1949 – một sự kiện mở đầu chuỗi sự kiện chào mừng 100 năm báo chí cách mạng VN.

Chuyện xưa kể với mai sau

Chiếc máy in 75 tuổi tại gian trưng bày Báo chí chiến khu

ẢNH: BẢO TÀNG BÁO CHÍ VN

Suốt 10 năm liền từ 2014 đến đầu tháng 8.2024, từ những tư liệu đầu tiên, những bài báo thưa thớt, cuốn sổ cảm tưởng của thầy và trò, những bức ảnh hiếm hoi để lại…, một hồ sơ tư liệu về cơ sở đào tạo báo chí cách mạng đầu tiên đã được đeo đuổi, gom góp, thành hình, dày dặn lên mỗi ngày, đủ để đề nghị các cơ quan chức năng xem xét công nhận là di tích quốc gia, rồi tiến đến cho phép tu bổ, tôn tạo.

Chỉ cách đúng 1 tuần trước ngày diễn ra lễ khánh thành, Bảo tàng vẫn tiếp tục tiếp nhận được một bộ ảnh gốc chưa từng được công bố, là những bằng chứng vô cùng sinh động về ngôi trường tranh tre nứa lá trên đồi cao của chiến khu xưa. Ít ai biết rằng, sau ngần ấy năm, gia đình cố nhà báo Mai Thanh Hải vẫn còn giữ được vẹn nguyên những di vật cha ông mình để lại, và con gái ông trước chuyến đi Mỹ dài ngày đã kịp trao lại cho Bảo tàng Báo chí VN những trang bản thảo phai màu mực và những tấm ảnh có tuổi đời tới 75 năm đúng dịp có lễ trọng như vậy!

 - Ảnh 2.

Sinh viên rất quan tâm đến các hiện vật báo chí thời kỳ chống Mỹ

ẢNH: BẢO TÀNG BÁO CHÍ VN

Cũng ở di tích, Bảo tàng Báo chí VN với tư cách chủ đầu tư đã táo bạo triển khai một bảo tàng thu nhỏ mang tên “Báo chí chiến khu Việt Bắc 1946 – 1954”. Sự có mặt của các trang báo, các hình ảnh, hiện vật liên quan đến hoạt động làm báo thời kỳ này, cùng với một hiện vật thể khối được đặt ở vị trí trung tâm, thu hút sự quan tâm đặc biệt của công chúng tham quan. Đó là chiếc máy in có xuất xứ từ Tuyên Quang, vốn là một trong những cỗ máy in năm 1950 đã từng tham gia in ấn báo chí chiến khu, in ấn tài liệu phục vụ Đại hội II của Đảng.

Để có sự hiện diện của “cụ” máy in trên 75 tuổi này, các cán bộ Bảo tàng đã mất tới 3 năm liền kiên trì đeo bám, thuyết phục, thậm chí còn phiền tới cả Chủ tịch Hội Nhà báo VN Lê Quốc Minh trực tiếp “điện đàm”, mới có cơ hội thuê xe cẩu vượt cả trăm cây số đưa hiện vật từ xứ Tuyên về địa điểm trưng bày bên Hồ Núi Cốc.

Vui nhất là nơi đây đã trở thành một địa chỉ đỏ kể từ sau ngày khánh thành mùa thu năm ngoái đến nay, gần như ngày nào, tuần nào cũng tấp nập đón khách về nguồn, tham quan, học tập, hội nghị, hội thảo…

 - Ảnh 3.

Góc trưng bày bản thảo Nhật ký nữ phóng viên chiến trường

ẢNH: BẢO TÀNG BÁO CHÍ VN

Sự trao truyền thiêng liêng

Rất nhiều tư liệu, hiện vật quý của các nhà báo lớp trước đã đến với Bảo tàng Báo chí sau khi người trong cuộc đã vĩnh viễn ra đi. Chính người thân của họ sẽ quyết định “số phận” của những hiện vật, tư liệu đó. Đối với các cán bộ Bảo tàng, luôn tâm niệm đó là những cơ duyên, “được các cụ mách bảo” để hiện vật, tư liệu không bị thất lạc, mục nát hoặc bị “đóng đinh”, chôn vùi đâu đó trong bóng tối của những góc nhà kho hay gác xép phủ bụi thời gian.

Đó là trường hợp của tập lưu báo gốc Trường Sơn (vốn có tên là Hoa thắm Trường Sơn, sau đổi thành Trường Sơn gang thép, đăng tải những thông tin đơn thuần về hoạt động của bộ đội trên khắp dải Trường Sơn), tờ báo duy nhất của Bộ đội Trường Sơn trong chiến tranh chống Mỹ. Báo được in ấn, xuất bản ngay trên chiến tuyến, do vậy câu chuyện làm báo của các phóng viên luôn gắn liền với bom đạn, sống chết, nhiều người trong số họ vĩnh viễn để lại tuổi xuân của mình nơi đây.

Tổng biên tập duy nhất của báo là đại tá Lục Văn Thao khi về hưu vẫn nâng niu cất giữ như báu vật, thi thoảng đem ra khoe với đồng nghiệp để cùng hồi tưởng những tháng năm làm báo trên tuyến lửa. Rất ngẫu nhiên, sau khi ông mất chưa đầy ba tháng mười ngày, con gái của cố nhà báo đã bất ngờ tiếp một cán bộ sưu tầm của Bảo tàng Báo chí, rồi xúc động thắp hương cho cha mình, xin được hiến tặng những tờ báo gắn liền với những năm tháng Trường Sơn oanh liệt của ông. Nhờ vậy, Bảo tàng Báo chí VN hiện đã có thêm một bộ sưu tập báo quý bổ sung vào hệ thống báo chí cách mạng trong kháng chiến chống Mỹ.

 - Ảnh 4.

Góc trưng bày chiếc loa 500W

ẢNH: BẢO TÀNG BÁO CHÍ VN

Còn nhớ, cuối năm 2015, Bảo tàng Báo chí VN được Ban Biên tập Báo Thanh Niên tạo điều kiện cho mượn địa điểm tổ chức Lễ hiến tặng hiện vật cho bảo tàng ngay tại tòa soạn báo. Buổi sáng hôm đó, Bảo tàng đã nhận được 4.000 hiện vật, tư liệu của các nhà báo, gia đình nhà báo và một số cơ quan báo chí trên địa bàn hiến tặng. Một trong số đó là các hiện vật, tư liệu của gia đình cố nhà báo Nguyễn Khắc Cần (tức Bảy Cần) hiến tặng. Ông Cần nguyên là Giám đốc đầu tiên của Đài Tiếng nói Nam bộ kháng chiến – “một đường mòn Hồ Chí Minh trên sóng phát thanh”, nguyên Phó giám đốc Đài Phát thanh giải phóng A, cũng chính là người được cấp trên tin cậy giao hỗ trợ tiếp quản các cơ sở phát thanh tại Sài Gòn trong ngày 30.4.1975.

Tuy nhiên, khi vị giám đốc đầu tiên của Đài nằm xuống, vợ ông không người chăm sóc, đã vào trại dưỡng lão để sống tiếp những năm tháng cuối đời. Cán bộ Bảo tàng Báo chí đã vào tận trại dưỡng lão thăm bà, được bà tin cậy gửi lại toàn bộ hồ sơ, tài liệu, bản thảo, hiện vật từng gắn bó với cuộc đời làm báo thanh sạch, chỉ biết hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng, cho sự nghiệp thống nhất đất nước của người chồng. Những hiện vật và tư liệu đó vừa rời xa ông mới một tháng sau khi ông từ giã cõi đời, về “ở” cùng phòng với các cán bộ Bảo tàng trong khách sạn cho đến khi lên đường về Hà Nội, nơi mấy chục năm trước ông đã tạm biệt để lên đường đi B theo tiếng gọi lý tưởng.

Ngắm những hiện vật, tư liệu ấy, càng hiểu thêm công việc làm báo và những đam mê, hy sinh thầm lặng của các nhà báo lớp trước, càng hiểu thêm ý nghĩa của sự “trao truyền” và “tiếp nối” những lý tưởng, những dâng hiến cho đất nước, cho dân tộc và sự nghiệp báo chí cách mạng mà những người làm báo hôm nay có thể cảm nhận, lĩnh hội và được tiếp sức từ chính những di sản mà họ bằng cách này hay cách khác, gửi gắm, hiện diện tại Bảo tàng của những người làm báo VN.

 - Ảnh 5.

Cán bộ, phóng viên Báo Thanh Niên làm lễ kết nạp Đảng tại Bảo tàng Báo chí VN

ẢNH: BẢO TÀNG BÁO CHÍ VN

Bức thư được công bố sau 50 năm của nhà báo chiến trường Lệ Thu

Dịp chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày báo chí cách mạng VN, trang cá nhân của nhà báo Trịnh Kim Anh đăng hình ảnh một bức thư rất đặc biệt, sau nửa thế kỷ nét mực đã mờ. Người viết thư là nhà báo Lệ Thu – người đã trao tặng Bảo tàng Báo chí VN một chiếc máy chữ vốn là chiến lợi phẩm ngay giữa chiến trường chống Mỹ mà chiến sĩ ta đã tặng chị và một cuốn bản thảo viết tay Nhật ký nữ phóng viên chiến trường (đã được in thành sách và được phát hành rộng rãi). Hiện bản thảo và máy chữ đều đang được trưng bày tại Bảo tàng.

May mắn là nhà báo Trịnh Kim Anh, nữ phóng viên chiến trường chống Mỹ năm xưa, từng có thời gian công tác ở Đài Phát thanh Giải phóng thuộc Ban Tuyên huấn Khu ủy 5 nổi tiếng gian khổ và ác liệt, bên dòng Trà Nô thuộc tỉnh Quảng Nam. Chị vốn là một ngòi bút uy tín ở Báo Nhân Dân, một cộng tác viên của Bảo tàng, người đã trao lại những kỷ vật chiến trường quý giá, trong đó có tấm vải dù mang nhiều kỷ niệm dọc đường hành quân của chị.

Hiểu và chia sẻ với công việc của Bảo tàng Báo chí, chị Kim Anh đã không từ chối nguyện vọng được lưu giữ bức thư gửi từ chiến trường của người mà chị gọi đó là “người chị, người thầy dìu dắt những ngày đầu vào chiến trường khu 5 – nhà báo, nhà thơ Lệ Thu”. Chị nói: “Sau 50 năm cất giữ bức thư, giờ đọc lại lòng vẫn ngập tràn cảm xúc “bởi tình thương chị dành cho mình, cùng những câu chữ nói lên khí chất của một nữ phóng viên chiến trường”. Bức thư viết khoảng năm 1973, tại chiến trường Liên khu V:

“Kim Anh thân mến,

Đón Tết ở Hoài Nhơn có vui không em? Những ngày vừa qua đi một mình chị thấy buồn, nhất là vào những ngày Tết cuộc đời vẫn cứ lang thang như vậy nhưng biết làm sao. Hôm đó tưởng phải đi mặt trước ngay chứ biết còn lâu lâu thế này thì chị đi Hoài Nhơn luôn cũng được. Chị và Cầm hôm đó vào văn phòng gặp các vị xong lại trở ra, Cầm đi trước còn chị thì khoảng 20 sẽ đi.

Như vậy là K đã trả lời dứt khoát: số PV đang công tác Bình Định ở lại toàn bộ để phục vụ chiến dịch. Em ở Hoài Nhơn độ khoảng vài tuần nữa thì nên về trên này (Tuyên huấn) trực và đợi có điều kiện thì đi khu chiến. Chị muốn đưa em đi khu Đông với chị nhưng biết rằng ở đó hiện nay tình hình rất căng thẳng, ác liệt. Vượt đường trong này không giống như đường Phù Mỹ, Hoài Nhơn. Nhất là hiện nay địch đang đề phòng ta tấn công nên phục suốt ngày đêm, ta đã có nhiều đoàn phải tổn thất trên đường lên xuống và trong khi hoạt động ở dưới. Chị biết là em không ngại tất cả những điều đó, nhưng về phía chị, phải có trách nhiệm đối với em. 

Chuyện ai “chết được” ai “không được chết” là chuyện tếu thôi chứ thực ra chị cũng nghĩ rằng em không nên lao vào những chỗ nguy hiểm khi chưa cần thiết. Khi cần thiết thì chúng ta dù có chết cũng sẵn sàng. Nghĩ như vậy không có gì khác hơn là vì em còn non nớt, chưa quen với hoàn cảnh phức tạp, ác liệt và quá sức căng thẳng của chiến trường khu Đông. Tất nhiên ở trên mảnh đất miền Nam này không ai nói được chỗ nào là chỗ an toàn, sung sướng…”;”Mong em thật vui và thanh thản trên quê hương của chị. Có gì viết thư cho chị nhé (nhờ Tuyên huấn X chuyển)”. Và đoạn tái bút cuối thư: “Chị mới nhận được tin (chưa chính thức) cậu Lưu đã hy sinh trong trận chiến đấu chống càn ở xã Bình Giang, Bình Khê trong đợt tập huấn vừa qua…”.

Không thể kể hết những hiện vật và những câu chuyện đằng sau nó. Như chiếc loa 500W và những cuộc đấu loa hai bên dòng Bến Hải giữa thập niên 60 của thế kỷ trước, năm 2017 rời Quảng Trị ra Hà Nội với Bảo tàng, xe khởi động mãi mà vẫn lặng im không nhúc nhích, đến lúc phải “khấn” thầm “xin các liệt sĩ cho phép” mới nổ máy được. Cũng không kể hết được tên tuổi những người làm báo dù đã đi xa vẫn bằng cách nào đó “mách bảo” con cháu, người thân tìm đến Bảo tàng để trao lại những kỷ vật đã gắn bó với đời làm báo cách mạng của họ, như gia đình các nhà báo Đỗ Đức Dục, Hoàng Tùng, nhiếp ảnh gia Trần Văn Lưu, các liệt sĩ Hoàng Kim Tùng, Bùi Nguyên Khiết, Đinh Hữu Dư…

Mỗi hiện vật, tư liệu báo chí ở Bảo tàng Báo chí VN hôm nay đều đã và đang “kể” câu chuyện người làm báo, nghề làm báo theo cách riêng, từ xuất xứ, bối cảnh và tình huống cụ thể liên quan đến những người trong cuộc – những nhà báo, cơ quan báo chí và thân nhân, bạn đọc, công chúng, cộng tác viên của họ. Và những người làm sưu tầm, nghiên cứu và phát huy di sản 100 năm báo chí cách mạng luôn tâm niệm điều này.