Lúc đầu, chúng tôi chỉ định xin phép chủ nhà cho chụp tấm ảnh, nhưng anh Hoàng Hà rất vui vẻ mở cửa cho vào căn phòng bên trái ngôi nhà rồi giới thiệu: “Đây là bàn thờ và di ảnh của ông và bà nội tôi. Còn đây là tủ hồ sơ, tư liệu được đóng thành tập và chiếc giường ngủ của ông nội…”. Theo anh Hà, sau khi học giả Nguyễn Hiến Lê qua đời, tro cốt được đem về chùa Phước Ân (H.Lấp Vò, Đồng Tháp). Riêng căn nhà thời ông làm nhà xuất bản ở Sài Gòn thì đã bán.

Ngôi nhà ở Long Xuyên, nơi học giả Nguyễn Hiến Lê từng dạy học và viết sách
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Lênh đênh miền sông nước
Trong hồi ký, học giả Nguyễn Hiến Lê cho biết ông sinh ra ở làng Phương Khê – một làng quê nghèo, quanh năm lam lũ, thuộc phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây cũ. Gia đình ông có căn nhà 3 gian 2 chái, 2 sào đất vườn và 3 mẫu ruộng mà theo ông, đó là sản nghiệp được xây dựng 3 đời liên tiếp, tức khoảng hơn 100 năm.
Từ nhỏ, Nguyễn Hiến Lê được cha dạy vỡ lòng chữ nho cùng chữ quốc ngữ. Cha mất sớm, mẹ tảo tần nuôi 4 người con. Ông học rất giỏi nhưng hết năm lớp Nhứt (lớp 5 bây giờ), khi thi tuyển vào trường Bưởi lại rớt vì môn Pháp văn nên phải vào học trường tư thục Trí Đức.

Bàn thờ cùng di ảnh của học giả Nguyễn Hiến Lê và bà Nguyễn Thị Liệp (người vợ thứ hai của ông)
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Năm 1927, Nguyễn Hiến Lê thi lại vào trường Bưởi và đậu thứ 12 trên 160 học sinh. Mùa nghỉ hè năm thứ nhất, ông được mẹ cho về làng Phương Khê học chữ nho để sau này đọc được gia phả bên nội, ngoại và biết gốc gác ông bà. Tuy nhiên, để dịch được những tác phẩm Hán văn kinh điển, về sau ông đã bỏ rất nhiều thời gian tự học, trong đó Hán Việt tự điển của cụ Đào Duy Anh là “quyển sách gối đầu” của ông.
Sau khi tốt nghiệp trường Công chánh, Nguyễn Hiến Lê không vui vì gia cảnh khó khăn, mẹ mua bán tảo tần, nhà 4 anh em thất nghiệp. Đến đầu năm 1935, ông được vào Sở Thủy lợi Nam Việt và làm việc tại Long Xuyên, với nhiệm vụ đo mực nước sông rạch từ Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, qua Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Công việc thường diễn ra ban đêm, trên chiếc ghe bầu. Nhờ vậy mà trong 2 năm, ông biết gần hết cảnh quan miền Tây.

Tủ hồ sơ, tư liệu của học giả được giữ gìn cẩn thận
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Trong một lần trú mưa ở tiệm tạp hóa tại Bạc Liêu, ông mua được bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim và bắt đầu tự học chữ Hán. Mỗi ngày lênh đênh trên sông nước, học chữ Hán cũng không hết thời giờ nên ông viết hồi ký, nhật ký để ôn lại cái vui đã qua và ghi lại cái vui hiện tại: những đêm trăng, thả con thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thủy mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng trên bờ. Cái vui nhìn mặt trời đỏ rực, lớn như chiếc mâm, từ từ hạ xuống một cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói tỏa ở Bạc Liêu… Cứ nhớ đâu chép đấy, viết có khi quên giờ giấc, mỏi tay đặt bút xuống nhìn lên bờ thì làng xóm đã nhòa nhòa sau làn sương mỏng.
Năm 1937, sau khi cưới vợ, ông về làm việc tại Sài Gòn. Năm 1944, trong khi viết cho tờ Thanh Nghị, ông tham khảo thêm sách sử, địa phương chí và viết Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười dạng biên khảo. Viết xong định gửi cho tờ Thanh Nghị đăng thì bấy giờ Bưu điện Sài Gòn không còn nhận bưu phẩm bảo đảm ra Hà Nội. Năm 1946, khi tản cư về nhà người bác ở Tân Thạnh, một đêm cướp vào nhà và ôm cái va li của ông đi, trong đó có bản thảo. Mãi đến 1954, ông mới viết lại Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười.
Từ dạy học đến viết sách
Năm 1947, Nguyễn Hiến Lê tới Long Xuyên thì bị kẹt ở đó do chiến tranh nên ông mở lớp dạy học để sinh nhai. Từ 1950 – 1953, ông dạy Việt Văn, Đức dục, Pháp văn và Hán văn ở Trường trung học Thoại Ngọc Hầu. Từ kinh nghiệm dạy học, ông bắt đầu viết sách. Đầu tiên là quyển Tổ chức công việc theo khoa học, rồi Kim chỉ nam của học sinh, Để hiểu văn phạm và Luyện văn (3 tập), chỉ cho học sinh cách viết văn và sửa văn… Cuối năm 1953, ông từ giã Long Xuyên về Sài Gòn chuẩn bị lập nhà xuất bản.

Phước Ân tự, nơi yên nghỉ của học giả Nguyễn Hiến Lê
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Sách của Nguyễn Hiến Lê viết và dịch đa dạng thể loại, từ Lời khuyên thanh niên, Tự học để thành công đến Đắc nhân tâm, Quẳng gánh lo đi và vui sống… Rồi Đông Kinh nghĩa thục, Đế Thiên Đế Thích, Sử ký của Tư Mã Thiên, Nguồn gốc văn minh, Lịch sử thế giới… Ngoài ra, ông còn tham gia viết cho nhiều tờ báo và tạp chí nổi tiếng. Thời gian đầu, sách của ông chủ yếu do Nhà P. Văn Tươi và Nhà xuất bản Thanh Tân in. Sau, ông lập nhà xuất bản riêng và tự in sách. Có những quyển bán rất chạy như Đắc nhân tâm, từ 1951 – 1975 được in tới 16 lần với trên 50.000 bản.
Trong Đời viết văn của tôi, ông tự thuật: “Tính ra vừa học, vừa dạy học vừa viết, mỗi năm trung bình tôi xong được 3 cuốn… Đáng kể nhất là tôi có chút danh phận trên văn đàn, được một số độc giả tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của Nhà P. Văn Tươi. Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc nuôi con, một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp và cô cho ở đậu trong nhà (Long Xuyên) để dạy học, học và viết. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải là duyên trời”.

Quyển du ký, biên khảo Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười
ẢNH: HOÀNG PHƯƠNG
Theo liệt kê trong quyển Đời viết văn của tôi (Nhà xuất bản VHTT, 2006), từ năm 1949 – 1975, học giả Nguyễn Hiến Lê có tổng cộng 113 tên sách đã in, bao gồm nhiều thể loại: văn học, văn phạm, lịch sử, triết học, chính trị, gương danh nhân, cảo luận – tùy bút, giáo dục, đức trí, du ký và tiểu thuyết dịch. Ngoài ra ông còn có 242 bài đăng trên các tạp chí nổi tiếng như Bách Khoa, Văn hóa nguyệt san, Phổ Thông, Mai, Văn, Tin Văn, Tân Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ, Đại Học, Khởi Hành… (còn tiếp)