Lương kỹ sư hàng không vũ trụ làm nhà nước chưa tới 10 triệu đồng

Lương kỹ sư hàng không vũ trụ làm nhà nước chưa tới 10 triệu đồng

bởi

trong

Dù được xác định là công nghệ chiến lược, chuyên gia hàng không vũ trụ Việt Nam vẫn nhận mức lương 5-8 triệu đồng, khiến nhiều kỹ sư trẻ rời bỏ cơ quan nhà nước

Theo quyết định 1131 được Thủ tướng ban hành ngày 12/6, công nghệ hàng không vũ trụ là một trong công nghệ chiến lược. Tuy nhiên, việc phát triển ngành này tại Việt Nam vẫn còn gặp khó khăn.

Tại tọa đàm công nghệ vũ trụ ngày 24/7 ở Hà Nội, PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, cho biết, chuyên gia được đào tạo thạc sĩ nước ngoài với chi phí 5-6 tỷ đồng, khi trở về làm việc tại trung tâm chỉ nhận mức lương 5-8 triệu đồng mỗi tháng. “Chính vì lương thấp, những chuyên gia này dần rời bỏ đơn vị khi được săn đón bởi các doanh nghiệp bên ngoài”, ông Tuấn nói.





Lương kỹ sư hàng không vũ trụ làm nhà nước chưa tới 10 triệu đồng

Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam Phạm Anh Tuấn chia sẻ về mức lương của kỹ sư hàng không vũ trụ. Ảnh: Trọng Đạt

Trao đổi với VnExpress, bà Lê Thanh Hương, Tổng giám đốc Công ty Công nghệ Sao Vega, khẳng định kỹ sư hàng không vũ trụ có thể nhận lương gấp 10 lần nếu làm việc cho doanh nghiệp tư nhân trong nước hoặc vài trăm nghìn USD mỗi năm nếu đầu quân cho tổ chức quốc tế như NASA. Tuy nhiên, bà nhấn mạnh: “Nhiều người chọn ở lại vì hoài bão cá nhân, không phải vì tiền. Họ làm ngày làm đêm vì muốn thực hiện những thứ chưa ai làm được”.

TS. Nguyễn Lương Quang, chuyên gia Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế (CEA Paris-S, Pháp), cũng cho biết một số kỹ sư người Việt tham gia dự án tư nhân có thể nhận lương 40 triệu đồng/tháng, hoặc thậm chí gấp 2-3 lần nếu làm vị trí tương tự ở Đài Loan, Pháp. “Chế độ đãi ngộ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực phát triển ngành. Không đảm bảo được cuộc sống sẽ không thể thu hút chuyên gia giỏi về làm việc”, ông nói.

Ngành công nghệ hàng không vũ trụ Việt Nam còn non trẻ nhưng có nhiều bước tiến. Năm 2008, vệ tinh viễn thông Vinasat-1 được phóng lên quỹ đạo, tiếp đến là vệ tinh Vinasat-2 năm 2012 và vệ tinh quan sát Trái Đất VNREDSat-1 năm 2013. Đây đều là vệ tinh đặt hàng nước ngoài sản xuất và do các đơn vị, doanh nghiệp trong nước vận hành, khai thác.

Từ năm 2013, Việt Nam bắt đầu có các dự án tự thiết kế, chế tạo vệ tinh cỡ siêu nhỏ như PicoDragon, MicroDragon, NanoDragon và mới nhất là LOTUSat-1 của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, qua đó từng bước tích lũy, làm chủ công nghệ.

Những năm gần đây, Việt Nam có thêm một số doanh nghiệp tư nhân tham gia vào mảng này, chủ yếu phát triển, cung cấp giải pháp quản lý, phân tích dữ liệu bản đồ, ảnh viễn thám, chế tạo thiết bị bay không người lái và nghiên cứu thử nghiệm vệ tinh quỹ đạo thấp.

Nhân lực ít ỏi

Bà Lê Thanh Hương cho biết ngành công nghiệp hàng không vũ trụ chia thành hai mảng chính: xử lý dữ liệu mặt đất và công nghiệp vũ trụ.

Mảng xử lý dữ liệu mặt đất cần kỹ sư địa tin học, am hiểu viễn thám, khoa học dữ liệu. Trong khi đó, mảng công nghiệp vũ trụ tập trung phát triển, thiết kế chế tạo, vận hành vệ tinh, máy bay, thiết bị bay không người lái (UAV) cần đội ngũ kỹ sư hàng không vũ trụ chuyên sâu. Lĩnh vực đòi hỏi kết hợp của nhiều chuyên ngành như nhiệt học, động lực học, quỹ đạo, phần mềm, cơ khí chính xác, vật liệu… để tạo ra sản phẩm. Kỹ sư cũng cần có vốn tiếng Anh tốt để làm việc với các chuyên gia nước ngoài.

Hàng không vũ trụ là ngành hẹp và số lượng kỹ sư tại Việt Nam tương đối ít. “Các nước hiếm khi đào tạo chuyên ngành này cho người nước ngoài, nên nguồn nhân lực khan hiếm”, bà nói. “Trong khi ở Việt Nam chỉ có vài đơn vị đào tạo, mỗi khóa khoảng 60 sinh viên. Chúng tôi gần như không tuyển được người”.

Theo bà, trên thế giới cũng có nhiều kỹ sư hàng không vũ trụ xuất phát từ những chuyên ngành gần như thiên văn học, vật lý… Khi chuyển sang hàng không vũ trụ, họ cần chuyên gia ở tầm kiến trúc sư trưởng dẫn dắt chuyên môn. “Đây là khoảng trống lớn ở Việt Nam, dẫn tới khan hiếm nguồn lực”, đại diện Sao Vega chia sẻ.





Nhóm kỹ sư trẻ của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam bên sản phẩm vệ tinh MicroDragon. Ảnh: Trung tâm Vũ trụ Việt Nam

Nhóm kỹ sư trẻ của Trung tâm Vũ trụ Việt Nam bên sản phẩm vệ tinh MicroDragon. Ảnh: Trung tâm Vũ trụ Việt Nam

Tại tọa đàm, bên cạnh vấn đề thu nhập, Tổng giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho biết khó khăn của người làm khoa học về hàng không vũ trụ Việt Nam còn đến từ việc không được đầu tư dài hạn, ảnh hưởng tâm lý của người nghiên cứu. Ông đề xuất xây dựng chiến lược dài hơi đến năm 2040-2050, cùng cơ chế đảm bảo tài chính đi kèm.

Theo ông, bên cạnh việc tăng lương cho nhà khoa học, Việt Nam cần đầu tư xây dựng cơ quan hàng không vũ trụ tầm quốc gia để điều phối, thay vì ở mức Ủy ban Vũ trụ như hiện nay. Đồng thời, Việt Nam nên có chiến lược phát triển kinh tế vũ trụ, coi đây là một trong 5 không gian phát triển của Việt Nam, cùng với “đất, biển, trời và không gian mạng”.

“Quy mô nền kinh tế vũ trụ toàn cầu dự báo đạt 1.400 tỷ USD năm 2030. Các tỷ phú công nghệ hàng đầu thế giới đều đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực này. Đã đến lúc cần xác định vũ trụ không chỉ là công nghệ chiến lược mà là một ngành kinh tế tiềm năng”, PGS. TS Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh.

Trọng Đạt