Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý báo chí

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý báo chí

bởi

trong

Cách đây tròn 1 thế kỷ, ngày 21.6.1925, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Báo Thanh Niên – cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển của nền báo chí cách mạng Việt Nam

Từ dấu mốc lịch sử đó, báo chí cách mạng Việt Nam đã từng bước trưởng thành, luôn đồng hành với đất nước và dân tộc, trở thành là lực lượng nòng cốt, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, có những đóng góp xuất sắc trong mọi hành trình phát triển của cách mạng nước nhà. 

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý báo chí

Bộ trưởng Bộ VH-TT-DL Nguyễn Văn Hùng

ẢNH: GIA HÂN

Ngay từ buổi đầu thành lập, dưới sự lãnh đạo của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, những tờ báo như: Thanh Niên, Tranh Đấu, Độc Lập, Cứu Quốc… đã triển khai nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục và trực tiếp tổ chức vận động cách mạng, góp phần rất quan trọng truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, đặt nền móng cho việc xây dựng nền tảng tư tưởng chính trị, lý luận và hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.

Trải qua các cuộc kháng chiến trường kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trước kia, cũng như trong công cuộc bảo vệ, xây dựng Tổ quốc và hội nhập quốc tế ngày nay, báo chí luôn là “tai mắt, tiếng nói của Đảng và nhân dân”, đóng vai trò ba trong một: “Đi trước mở đường – Đi cùng thực hiện – Đi sau tổng kết”. 

Trong thời kỳ đổi mới, chính báo chí đã góp phần mở đường định hướng dư luận cho các cải cách táo bạo về kinh tế – xã hội, góp phần thúc đẩy xây dựng Nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ, văn minh. Không chỉ là tiếng nói chính trị, tư tưởng, báo chí còn là một cấu phần quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa, kinh tế báo chí, truyền thông. Đằng sau mỗi bản tin, mỗi trang báo là những đóng góp âm thầm, đầy trách nhiệm, lao động nghiêm túc bằng mồ hôi và nước mắt của người làm báo, những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa.

Trong hành trình mới hôm nay – Hành trình của kỷ nguyên chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và hội nhập toàn cầu, báo chí cách mạng Việt Nam tiếp tục đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác thông tin, truyền thông chính sách, tạo đồng thuận xã hội và lan tỏa giá trị quốc gia. “Báo chí là mạch dẫn tri thức – Kết nối niềm tin”, do đó, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về báo chí chính là điều kiện tiên quyết để nền báo chí cách mạng nước nhà phát triển lành mạnh, chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại.

Luật Báo chí năm 2016 ra đời đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong việc thể chế hóa quyền tự do báo chí đi đôi với quản lý nhà nước. Các nội dung mới như quyền và nghĩa vụ của cơ quan báo chí, nhà báo; cơ chế cấp phép, thu hồi, thanh tra chuyên ngành, quy hoạch báo chí… được quy định rõ ràng, tạo nền tảng pháp lý vững chắc để quản lý, kiến tạo phát triển báo chí. 

Từ đó đến nay, Chính phủ, các bộ đã ban hành hơn 31 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động báo chí. Đến nay, số lượng cơ quan báo đã giảm gần 30% so với trước quy hoạch, trong đó có nhiều trường hợp sáp nhập thành công, bảo đảm giữ được định hướng chính trị, đồng thời tiết kiệm nguồn lực và nâng cao chất lượng sản phẩm báo chí.

Dù đạt nhiều thành tựu, báo chí hiện nay đang đối mặt với những thách thức lớn, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập toàn cầu. Sự bùng nổ của không gian mạng và truyền thông số khiến việc kiểm soát, định hướng thông tin trở nên phức tạp. Tin giả, thông tin xuyên tạc, kích động lan truyền nhanh chóng trong khi báo chí chính thống bị mất thị phần và ưu thế dẫn dắt. 

Mô hình kinh tế báo chí truyền thống bị phá vỡ, doanh thu quảng cáo sụt giảm nghiêm trọng, nhiều tòa soạn gặp khó khăn về tự chủ tài chính, cơ chế đặt hàng còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp lý còn chồng chéo, bất cập, nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tiễn, trong đó có các quy định về mô hình tổ chức, quyền lợi nhà báo, báo chí trên nền tảng số, bản quyền nội dung… Tính “minh định” rõ ràng trong quan hệ giữa cơ quan chủ quản – cơ quan quản lý – cơ quan định hướng tư tưởng khiến việc thực thi quản lý nhà nước còn phân tán, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. 

Trình độ, đạo đức một bộ phận người làm báo chưa theo kịp yêu cầu mới trong môi trường số và hội nhập, đặt ra yêu cầu nghiêm túc về chuẩn đạo đức và trách nhiệm xã hội của người làm báo. Việc thiếu cơ chế xác thực và nhãn hiệu số cho báo chí chính thống khiến công chúng dễ bị hiểu lầm giữa nguồn chính thống và tin giả, làm suy giảm vai trò định hướng của báo chí cách mạng.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về báo chí, trong thời gian tới với trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân nhân, Bộ VH-TT-DL sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo và Dân vận T.Ư, Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan liên quan tập trung triển khai đồng bộ một số nhóm giải pháp trọng tâm như sau:

Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn, toàn diện về những thách thức to lớn mà công nghệ số, trí tuệ nhân tạo đã và đang tác động toàn diện, sâu sắc chưa từng có trong lịch sử đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực báo chí. Đây là vấn đề có tính căn cốt, nền tảng đầu tiên mà chúng ta cần làm rõ và nhận diện thấu đáo.

Trí tuệ nhân tạo vừa là công cụ hỗ trợ, mà đang trở thành cánh tay nối dài giúp người làm báo nâng cao hiệu quả tác nghiệp và thực hiện sâu sắc hơn các chức năng cốt lõi của báo chí – từ thông tin, giáo dục, giám sát, phản biện đến định hướng xã hội. Nhưng trí tuệ nhân tạo không thể và không bao giờ thay thế được trí tuệ, tâm hồn, bản lĩnh và cảm xúc của con người, nhất là của người làm báo cách mạng. Bởi báo chí vừa là thông tin, mà còn là thái độ, lập trường, lương tri và niềm tin – những điều AI không thể “lập trình”. Một bản tin có thể được máy móc tạo ra, nhưng một tấm lòng, một câu chữ lay động lòng người, một góc nhìn đầy nhân văn thì chỉ có thể được chưng cất từ người làm báo với những giọt mồ hôi, lăn lộn, thấm đẫm thực tiễn, có tư duy độc lập, có bản lĩnh chính trị vững vàng và có trái tim thấu cảm với đời sống của nhân dân.

Người làm báo trong thời đại AI phải vừa “nâng tầm công nghệ” vừa “giữ vững căn cốt tư tưởng”. Đó là sự kết hợp giữa trí tuệ dữ liệu và trí tuệ chính trị, giữa tốc độ công nghệ và chiều sâu văn hóa. Nhà báo không thể đứng ngoài cuộc chuyển đổi số, nhưng cũng không được để mình bị dẫn dắt hoàn toàn bởi thuật toán – vốn vô cảm trước sự thật và giá trị. Người làm báo phải làm chủ công nghệ, sử dụng AI như một công cụ tăng cường năng lực chứ không làm suy giảm phẩm chất nghề nghiệp. Phải biết chọn lọc, phân tích, xử lý thông tin một cách có tư duy phản biện, có đạo đức nghề báo, có trách nhiệm xã hội và có tinh thần phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân và chỉ khi ấy, người làm báo mới không bị lệ thuộc vào công nghệ mà còn “vượt lên trên công nghệ”, để báo chí thật sự là ngọn đuốc soi đường, là tiếng nói của lương tri và sự thật.

Do vậy, thời gian tới, Bộ VH-TT-DL sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo và Dân vận T.Ư, Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan có liên quan triển khai thành đợt thi đua cao điểm với nhiều sân chơi, diễn đàn đa dạng trong toàn quốc để cùng học tập, nghiên cứu và ứng AI cho đội ngũ những người làm báo toàn quốc với quan điểm: “Nhận thức đúng để có hành động đẹp”.

Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về báo chí sẽ tiếp tục được Bộ VH-TT-DL chỉ đạo, phối hợp đồng bộ theo hướng tháo gỡ điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực và kiến tạo không gian phát triển mới cho báo chí cách mạng. Kiên quyết từ bỏ tư duy: “Không quản được thì cấm”, “Không biết mà vẫn quản”, chuyển mạnh từ: “Quản lý hành chính thụ động” sang “Quản trị phục vụ gắn với truyền thông số và kết nối dữ liệu” trong bối cảnh báo chí, truyền thông đã vượt khỏi biên giới truyền thống, lan rộng trên nền tảng số toàn cầu. 

Một trong những trọng tâm là quản lý chặt chẽ các dòng thông tin xuyên biên giới, đặc biệt là kiểm soát các nền tảng số nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, bảo đảm chủ quyền số và an ninh thông tin. Bộ sẽ phối hợp xây dựng các công cụ giải mã, thẩm định, phân loại nội dung trên nền tảng số, kết hợp giữa quản lý nhà nước và ứng dụng công nghệ để nâng cao năng lực phân tích, đánh giá, định hướng dòng thông tin, phòng ngừa nguy cơ lệch chuẩn và tác động tiêu cực đến xã hội.

Về thể chế, việc sửa đổi luật Báo chí tới đây sẽ cân đối, đảm bảo tích hợp, thống nhất với các luật liên quan như: luật An toàn thông tin mạng, luật Doanh nghiệp, luật Xuất bản…. Trong đó, tập trung vào một số định hướng lớn sau: (1) Thể chế hóa đầy đủ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí; bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân theo Hiến pháp năm 2013. 

Luật sửa đổi phải làm rõ ranh giới giữa quyền tự do báo chí với trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, bảo đảm sự minh bạch nhưng không buông lỏng quản lý. (2) Hoàn thiện các quy định liên quan đến hoạt động báo chí trên không gian mạng. (3) Tăng cường công tác quản lý đối với hoạt động báo chí; Luật sửa đổi hướng tới xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra hiệu quả để ngăn chặn tình trạng “truyền thông đội lốt báo chí” hoặc “báo chí hóa hoạt động truyền thông doanh nghiệp”‘; đẩy mạnh hậu kiểm có trọng tâm, kiểm tra dựa trên tiêu chí chất lượng thay vì kiểm soát hình thức. (4) Nâng cao chất lượng người làm báo, lãnh đạo cơ quan báo chí nhằm xây dựng đội ngũ giỏi chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp. (5) Thúc đẩy phát triển kinh tế báo chí tạo hành lang pháp lý thông thoáng để báo chí có không gian tạo nguồn thu hợp pháp đảm bảo phát triển bền vững. 

Mục tiêu chiến lược là thiết lập hệ sinh thái báo chí quốc gia có tính quản trị cao, bảo đảm nguyên tắc “thống nhất trong đa dạng”, vừa bảo vệ định hướng tư tưởng chính trị, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc; vừa tạo dư địa cho sự sáng tạo, đổi mới, nhân văn và hiện đại.

Thứ ba, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, nâng cao hiệu quả, chất lượng cơ chế phối hợp giữa cơ quan lãnh đạo – cơ quan quản lý – hội nghề nghiệp với cơ quan chủ quản đơn vị báo chí trong bối cảnh truyền thông số và trí tuệ nhân tạo phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xác lập một cơ chế phối hợp thống nhất về mục tiêu – rõ ràng về vai trò – minh bạch về trách nhiệm. Trong đó, minh định rõ hơn nữa trách nhiệm của Ban Tuyên giáo và Dân vận T.Ư với vai trò là cơ quan chỉ đạo, định hướng về tư tưởng, chính trị; Bộ VH-TT-DL với chức năng tham mưu quản lý, kiến tạo chính sách, kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật; Hội Nhà báo Việt Nam giữ vai trò nòng cốt trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp, giữ gìn chuẩn mực văn hóa báo chí.

Đặc biệt, cần xác lập rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản, với tư cách là đơn vị trực tiếp sử dụng công cụ báo chí, trong việc chịu trách nhiệm chính trị, tổ chức, nhân sự và nội dung thông tin. Việc bổ nhiệm, đề bạt lãnh đạo cơ quan báo chí, đặc biệt là các chức danh lãnh đạo chủ chốt, nhất là người đứng đầu cần được thực hiện đúng quy trình, tiêu chuẩn và minh bạch.

Thứ tư, tập trung đột phá trong tư duy quản lý, quản trị nhằm phát triển báo chí gắn với kinh tế báo chí vừa là yêu cầu thực tiễn, mà còn là điều kiện tiên quyết để báo chí cách mạng tồn tại, phát triển và thực hiện tốt sứ mệnh trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên số, trí tuệ nhân tạo và truyền thông toàn cầu.

Một mặt, Bộ VH-TT-DL sẽ tiếp tục tham mưu Đảng, Nhà nước rà soát và hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế báo chí theo hướng đồng bộ, thông thoáng và mang tính kiến tạo cao. Trên tinh thần đó, các chính sách ưu đãi như miễn – giảm thuế, hỗ trợ vốn vay ưu đãi, nhà nước đặt hàng sẽ được rà soát và vận hành theo nguyên tắc minh bạch, hiệu quả, gắn với tiêu chí chất lượng nội dung và phục vụ nhiệm vụ chính trị – xã hội. 

Ưu tiên nguồn lực cho báo chí thực hiện các nhóm nội dung thiết yếu, có tính chiến lược liên quan tới an ninh, quốc phòng, chủ quyền biên giới, lãnh thổ, văn hóa, xã hội, hội nhập quốc tế, thông tin phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng còn nhiều khó khăn, khu chế xuất, khu công nghiệp. 

Đặc biệt, sẽ tham mưu Thủ tướng Chính phủ sớm ban hành chính sách về bản quyền nội dung số và chia sẻ doanh thu giữa các nền tảng số xuyên biên giới với báo chí chính thống để bảo vệ thành quả lao động, quyền lợi hợp pháp của người làm báo Việt Nam.

Mặt khác, các cơ quan báo chí cần phải chủ động hơn nữa, tự tin dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám đột phá hơn nữa, quyết tâm chuyển đổi số thành công, thay đổi tư duy quản lý, quản trị tòa soạn, thích nghi và chủ động nâng cao năng lực nội tại để phát triển bền vững. 

Cần linh hoạt kết nối các nguồn lực xã hội thông qua hoạt động liên kết để tận dụng lợi thế công nghệ và sự sáng tạo đa dạng của các chủ thể truyền thông; chủ động xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có khả năng làm báo bằng công nghệ, bằng dữ liệu lớn, bằng sự thấu cảm xã hội, hiểu biết sâu sắc về thị trường truyền thông, luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và sứ mệnh phụng sự quốc gia, dân tộc.

Thứ năm, nghiêm túc, quyết liệt thực hiện công tác quy hoạch hệ thống báo chí toàn quốc gắn với cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả và xây dựng nguồn nhân lực báo chí có đức, có tài và năng lực thích ứng trong kỷ nguyên chuyển đổi số, như một đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền báo chí cách mạng.

Với tư cách là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước, báo chí Việt Nam phải tiên phong đi đầu thực hiện nghiêm túc, bài bản và khoa học. Việc tinh gọn hệ thống báo chí không đơn thuần là sáp nhập về tổ chức, mà là cơ hội để nâng cao chất lượng, tái cấu trúc chức năng, làm rõ sứ mệnh, tăng hiệu năng hoạt động và hiệu quả phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Song song với đó, phải tập trung phát triển nguồn nhân lực báo chí chất lượng cao, xem đây là then chốt, là trụ cột chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi đội ngũ người làm báo không chỉ giỏi nghiệp vụ, tinh thông công nghệ, mà đòi hỏi phải thật sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, nhạy bén xã hội, có đạo đức nghề nghiệp và tâm huyết với nghề, với dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Người làm báo cách mạng cần phải gần dân, hiểu dân, học dân, nói tiếng nói của dân và viết để phục vụ dân”. Lời Bác căn dặn vẫn còn nguyên tính thời sự khi báo chí đứng trước thử thách giữa dòng thông tin hỗn loạn, phân cực và không ít biểu hiện lệch chuẩn, thương mại hóa.

Để đáp ứng yêu cầu đó, cần đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo chí theo hướng tăng thực hành – tăng phản biện – tăng tính chính trị – và tăng cả chiều sâu văn hóa, nhất là văn hóa ứng xử. Việc xây dựng bộ quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp trong môi trường số là yêu cầu bức thiết, nhằm điều chỉnh hành vi nghề nghiệp trước những cám dỗ từ mặt trái của kinh tế thị trường và áp lực thương mại hóa thông tin. Cùng với việc khuyến khích các tác phẩm báo chí điều tra, phản biện, có chiều sâu và giá trị xã hội cao, cần thiết lập cơ chế kiểm soát, chế tài nghiêm khắc đối với các vi phạm đạo đức báo chí, nhằm tạo dựng niềm tin của công chúng với nền báo chí cách mạng. Người làm báo không chỉ viết bằng kỹ năng, mà còn viết bằng bản lĩnh chính trị, bằng lòng yêu nước, bằng trái tim nhân văn và thấm đẫm lòng trắc ẩn. Chỉ khi hội đủ “Mắt sáng – Lòng trong – Bút sắc”, người làm báo mới xứng đáng là chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng, đưa nền báo chí Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại.

Nền báo chí cách mạng Việt Nam trong một thế kỷ qua đã vượt qua muôn vàn gian khó để trưởng thành, vững vàng, đồng hành cùng dân tộc trong mọi chặng đường phát triển. Trước thách thức và cơ hội của giai đoạn hiện nay, thời đại số hóa, trí tuệ nhân tạo và truyền thông toàn cầu, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về báo chí vừa là nhiệm vụ cấp bách, mà còn là sứ mệnh lịch sử. 

Công tác quản lý nhà nước phải thực sự kiến tạo, đồng bộ, hiệu quả thì hoạt động báo chí mới trở thành hệ sinh thái thông tin, tuyên truyền, định hướng, dẫn dắt, củng cố niềm tin và khát vọng vươn lên giàu mạnh, thịnh vượng của toàn dân tộc. 

Xây dựng nền báo chí mang đậm tính nhân văn, phản ánh chiều sâu truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cung cấp tri thức, kỹ năng, thái độ, lối sống văn hóa, những giá trị “chân – thiện – mỹ” cho mọi tầng lớp nhân dân; quảng bá hình ảnh, đất nước con người Việt Nam đến sâu hơn, rộng hơn với bạn bè thế giới, đóng góp xứng đáng vào quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 khi Đảng ta tròn 100 năm thành lập (1930 – 2030); hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945 – 2045) mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định.