
Tưởng niệm nơi nhà báo Takano bị bắn giữa phố Lạng Sơn (Ngọc Hải thứ ba từ trái sang) – Ảnh tư liệu
Lúc này đã ngưng tiếng súng giao tranh nên đoàn chúng tôi đi xe ô tô lên biên giới.
Đoạn nhật ký chiến trường
“Thị xã Lạng Sơn hoang dã, đổ nát dù dân đã trở về khôi phục ruộng vườn, vừa làm vừa lo mìn gài sót lại. Nghe nói quân giặc cài cả mìn dưới những luống rau. Nhổ su hào bắp cải cũng phải rất cẩn thận nữa là.
Cỏ dại mọc cao đến ngực trước các biệt thự nhỏ đổ nát. Xe qua cửa thị ủy và khu các cơ quan có cây súng thần công cổ thì dừng lại. Chúng tôi xuống đường đứng mặc niệm. Ngay giữa đường là khu mộ tượng trưng nơi nhà báo Nhật Takano Isao bị bắn lén chết ngay giữa phố. Thi thể anh vừa được đưa về Hà Nội trước lúc chúng tôi lên.
Tôi giật mình vì Takano chết ở nơi phố xá khá an toàn, không phải trên núi hay trận địa mà ngay gần cửa khối nhà các cơ quan trung tâm thị xã.
Dọc đường chúng tôi dừng lại vì thấy giữa nơi hoang vu có bốn ngôi mộ mới ven đồi. Đọc tấm biển gỗ tạm trên mộ mới biết đây chính là bốn người y bác sĩ của Bệnh viện Lạng Sơn đi cứu thương đã bị bắn ở Đồng Đăng ngay sáng 17-2 mà đài báo đã đưa tin. Tôi còn nhớ đài đã nhắc tên bác sĩ Thu Thủy, y tá Sâm…
Chúng tôi cắm những cành hoa sim tím lên mộ, đứng mặc niệm trong tiếng chặt củi vang vọng trên núi xa xa, nghe thêm buồn bã trong hoang vắng.
Chúng tôi lên hang Chùa Tiên – nơi diễn ra trận đánh ác liệt – nhìn xuống thị xã qua khe núi và ngồi trên tảng đá Takano từng ngồi trong tiếng pháo gầm dữ dội để viết bài phóng sự cuối cùng mà chúng tôi đã đọc.
Cảm phục xen lẫn ngạc nhiên – hóa ra cái phóng sự có cả nét trào lộng dí dỏm đã được nhà báo Nhật viết ra trong đạn bom.
Về khách sạn thấy các nhà báo nước ngoài đang tắm lộ thiên dưới vòi nước công cộng sau nhà… Ăn cơm xong thì đi họp báo nghe phổ biến chương trình ngày mai lên Đồng Đăng sát biên giới – nơi trao trả.
Chúng tôi đi qua chân pháo đài Đồng Đăng, vượt qua đoạn đường ngập nước. Phóng viên gồng tay đẩy xe lên.
Pháo đài nổi tiếng này là nơi diễn ra đánh ác liệt, chết rất nhiều, cả dân thường. Tôi nhìn lên đỉnh núi trơ trọi không cây cối, hai lô cốt bị phá tan, giống như có bàn tay khổng lồ đã nhấc lên rồi úp ngược trở lại.
Sáng đó đoàn nhà báo được dẫn đi… hàng một theo chân bộ đội dẫn đường, theo vạch vôi vì xung quanh còn rất nhiều mìn do giặc cài lại. Bi đông đổ đầy nước. Tự đem suất ăn trưa. Tất cả tài liệu quan trọng để ở nhà không được đem theo vì phòng xa bị… bắt cóc.
Đi hàng một kiểu theo dấu chân người trước mà bước, thấy thương các anh bộ đội trẻ măng đứng gác hai bên đường. Chúng tôi hỏi nhau “bạn nào có kẹo, hay… thuốc lá cũng được – đem tặng bộ đội đi”. Nhưng mà không ai có.
Trao trả từ phía đối phương có nhiều bà con dân thường miền núi Việt Nam bị bắt. Họ bước vội về phía ta và bực tức quay lại… ném trả tất cả những đồ ăn thức uống chắc vừa được cấp phát. Rồi tù binh phía đối phương cũng vứt đồ kiểu đó. “Thật là cả hai bên đều… con nít”, chúng tôi nói thầm với nhau.
Phía Việt Nam trao trả phần lớn là các lính trẻ Trung Quốc. Không có phiên dịch, tôi tận dụng chút Trung văn học hồi phổ thông ở Hải Phòng, nơi tôi có rất nhiều bạn thân là Hoa kiều.
Tôi hỏi câu đơn giản dễ nhớ nhất: “Quê anh ở đâu?”, người lính trẻ đang định trả lời thì anh khác già hơn ngồi cạnh ngăn không cho nói mà tự trả lời thay, thái độ rất…căng thẳng: “Tất cả chúng tôi đều… quê Trung Quốc!”.
Tôi bật cười: “Tất cả quê Trung Quốc ư? Đúng rồi. Vậy sao các anh lại… ngồi đây?”.
Các bạn nhà báo đi theo đều cười ồ…”.
Đời làm báo còn cho tôi chuyến nghiên cứu biên giới dài ngày sau cuộc chiến. Tôi có dịp hỏi chuyện một chị phụ nữ người dân tộc có câu chuyện lạ nhất đời: Giặc tràn qua biên giới lúc rút còn lùa theo cả trâu bò của đồng bào.
Bà vốn là một du kích giỏi luồn rừng, khoe rằng bà biết con trâu của bà bị bắt đang được nuôi giữ ở một bãi gần rừng sát biên giới. Bà bảo sẽ luồn rừng sang bãi trâu đó để dắt “con của mình” về. Trâu luôn nhận ra chủ.
…Và đó là nỗi ân hận tiếc hùi hụi trong nghề của tôi: không thể đi theo nên đã bỏ qua một chuyện ly kỳ. Lúc ấy mà viết được phóng sự “đi đòi trâu” đăng lên thì có mà… cháy rừng rực mặt báo.

Nhà báo Ngọc Hải được anh tự vệ đưa qua sông bằng thuyền độc mộc vừa tự chế, vì cầu Kỳ Lừa đã bị đánh sập tháng 2-1979 – Ảnh tư liệu
“Nộp bài đi đã rồi hãy… chết”
Khi tôi kể những kỷ niệm trên đây cho một nhà báo trẻ thì cô ấy bảo: “Cô đi những chuyến công tác dài vậy nhiều chuyện chưa kể hết. Thí dụ chuyện tác nghiệp như thế nào? Viết tay trên xe, gửi bài về làm sao?
Không có điện thoại thì làm cách nào liên lạc? So sánh khó khăn thuận lợi nghề nghiệp thời đó với ngày nay khi mà đến tận bây giờ cô vẫn tác nghiệp trong khi nhiều đồng nghiệp hồi ấy đã buông bút lâu rồi?”…
Tôi thật lúng túng không biết trả lời sao. Kể sao cho hết được khó khăn ngày ấy, mà ngày đó không ai dám kể vì làm sao so được với những khó khăn bội phần của chiến trường và cuộc sống gian khó trong chiến tranh.
Đúng. Lúc ấy khó lắm. Tổng biên tập của tôi đã nhìn ra sớm. Bà bắt các phóng viên chúng tôi học đánh máy chữ và mời thầy Bùi Ý nổi tiếng về tòa báo dạy chúng tôi tiếng Anh. Dù rằng tiếng Anh khó có thể giỏi trong chiến tranh đói khổ, cả đời không thấy một “ông Tây” nào để thực hành nhưng tôi học khá trong lớp và nhờ đó có ít vốn đi tu nghiệp ngắn ngày tại Philippines sau này.
Ngày đó chỉ cuốn sổ, cây bút, một sức chịu đựng vượt được gian khổ, sợ hãi, một ý thức kỷ luật sắt mà chúng tôi đùa nhau: “Nộp bài đi đã rồi hãy… chết”.
Bài để bản mộc nộp lên. Thư ký tòa soạn sửa – đưa phòng đánh máy (chỉ có một người làm hành chính). Tổng biên tập duyệt xong họa sĩ trình bày và đưa đi nhà in. Đôi khi cả cơ quan mừng rỡ được gọi đi lồng báo vào ban đêm vì sẽ có chút thù lao ít ỏi.
Có thời kỳ các phóng viên phải đi bán báo. Mỗi người một chồng báo xếp buộc sau xe đạp, bán đâu thì tùy, miễn là phải bán hết. Thế nên cây hài hước là chị Tố Nga (vợ GS Hoàng Ngọc Hiến – nay cả hai đều đã mất) có câu chuyện hài làm cả cơ quan được bữa cười vỡ bụng.
Chuyện là chị và tôi chở báo đi bán nhưng thích đi chơi hơn nên chị rủ tôi chở báo vào… Bệnh viện Việt – Xô thăm người anh rể nằm viện, báo mang nhờ bảo vệ bán. Bán không hết, về tòa soạn bị truy ráo riết “có đi bán không, bán ở đâu, giờ nào…”.
Và cả cơ quan cười rũ khi chị báo cáo có đem báo vào bán ở… khoa mắt, chứng minh rằng mình nhìn thấy từng đoàn bệnh nhân băng kín mắt bá vai nhau bước đi quờ quạng. Thế thì không bán được báo là phải!
Không có điện thoại, đi đâu chúng tôi đều nỗ lực và tự giác với tinh thần độc lập tác chiến. Sổ và bút, hỏi và ghi. Đêm về vừa bế con đang sốt trên lòng vừa viết để kịp mai sớm đạp xe đến tòa soạn nộp bài.
Dù tôi đã kể và giải thích những chuyện này cho cô bạn nhà báo trẻ nghe nhưng cô ấy vẫn không hài lòng.
Tôi đang bí thì cô ấy đặt câu hỏi tiếp: “Tại sao hồi ấy thiếu phương tiện nhưng lại thừa động lực, còn nay nghề báo thừa phương tiện nhưng động lực thì thiếu hụt quá. Có phải vậy không cô ơi?”.
Trời đất! Đây chính là câu trả lời đây rồi…
Ngày ấy động lực là “tất cả cho tiền tuyến” – nhiệm vụ thống nhất đất nước đòi hỏi mọi cố gắng hy sinh trên mọi lĩnh vực thì mình phải làm việc với tinh thần đó của toàn dân. Đó chính là động lực không bao giờ cạn kiệt.
Ngày đó chỉ cuốn sổ, cây bút, một sức chịu đựng vượt được gian khổ, sợ hãi, một ý thức kỷ luật sắt mà chúng tôi đùa nhau: “Nộp bài đi đã rồi hãy… chết”.
——————————–
Đời phóng viên chiến trường, khi từ điểm nóng đạn bom tìm mọi cách đưa các cuộn phim về tòa soạn ở Hà Nội, Đoàn Công Tính ghi chú như lời trăng trối “Nếu tôi hy sinh, xin gửi những cuốn phim này về tòa soạn báo Quân Đội Nhân Dân”.
Kỳ tới: “Nếu tôi hy sinh, xin gửi những cuốn phim này về tòa soạn”