
Nhà báo Tô Minh Nguyệt tác nghiệp dưới hầm lò Vàng Danh, Quảng Ninh 1970 – Ảnh tư liệu
Mỗi lần chạm vào chúng, kỷ niệm về một quãng đời gian khổ mà đẹp đẽ lại ùa về, tất cả vẫn như còn đâu đây, óc ách đầy vơi, thầm thì thiết tha…
1. Chúng tôi bước vào tuổi 20 khi cả nước có chiến tranh. Đời bộ đội được coi là trường học lớn nhất của thanh niên.
Nhà tôi ở ngoại ô, vách đất lợp tranh bé xíu, đầy ắp tiếng cười bỗng dưng vắng bóng con trai: anh trai tôi vừa tốt nghiệp đại học đã lên đường nhập ngũ ngay ngày đầu tiên máy bay Mỹ đánh ra bầu trời miền Bắc tháng 8-1965.
Mùa hè năm 1967, em trai tôi học xong lớp 10 cũng kiên quyết ra đi.
Lúc này Hà Nội đã bắt đầu vang động những hồi còi báo động, bom rơi xuống năm cửa ô. Việc cơ quan lẫn với việc nhà: đưa các em đi sơ tán, đào hầm, lợp nhà, trát vách, viết thư cho mặt trận… đều những bàn tay con gái chúng tôi.
Bận mấy tôi vẫn gửi một phong bì đến chương trình “Tiếng hát gửi về Nam”, yêu cầu đài phát thanh bài em trai tôi thích.
Từ căn hầm bí mật ven đô Huế, có lần em bất ngờ trào nước mắt khi nghe đài đọc một truyện ngắn của tôi. Em nhắc dưới mỗi lá thư: “Hẹn gặp chị trên Đài Tiếng nói Việt Nam”. Lá thư nhoè đi vì nước mắt của mẹ.
Năm 1972, Hà Nội báo động suốt ngày đêm, trẻ con, người già đi sơ tán. Mọi hoạt động khác vẫn diễn ra bình thường. Hầm tránh bom đào ngay cạnh bàn làm việc, ở tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam của chúng tôi, lớp học tiếng Anh vẫn mở cho những người ở lại.
Tôi được gọi là phóng viên chiến trường từ ấy. Tôi đạp xe đi Hàm Rồng, phà Ghép, làng Đo giữa những trận bom. Rồi B-52 rải thảm Hà Nội, chúng tôi vừa trực cơ quan vừa đi viết bài.
B-52 cày xới khu phố Khâm Thiên ngay đêm Noel 1972. Lòng phố không một vết bom nhưng hai bên đường nhà bị đào lên như những cái ao.
Các bảng hiệu Nhận làm bánh quy, Mạng vá quần áo, Cửa hàng rau quả, Làm chìa khóa, Ông lang Thành chuyên trị ho gà… lủng lẳng trước những căn nhà bé nhỏ, đổ sập, xiêu vẹo. Bệnh viện Bạch Mai, làng rau Láng quê tôi cũng bị bom cày nham nhở.
Đứng giữa Khâm Thiên lúc ấy tôi như chết lặng. Nhưng rất nhanh sau đó tôi đã ghi lại được những câu chuyện cuộc sống vẫn đang tiếp tục như tôi đang viết. Những lời nhắn ghi vội trên cửa: “Bố bị thương, con theo bà đi sơ tán”, “Em ở nhà máy trực”, “Nhà an toàn, đồ đạc không còn gì. Mẹ đi bán rau chỗ sơ tán”, “Nhà không còn ai, xe đạp gửi chỗ đồng chí trưởng khối”.
Hiệu sách, cửa hàng ăn ở Tràng Tiền vẫn bình thường. Quầy hoa bên hồ Hoàn Kiếm sau báo động lại rất đông người. Đám cưới của hai xạ thủ Nhà máy Cơ khí Hà Nội tổ chức ngay bên mâm pháo. Chưa bao giờ người Hà Nội xếp hàng mua báo dài như những ngày ấy.
Khi trở lại Khâm Thiên, bên mộ một bà bán cháo lòng tôi thấy mấy người đàn ông lặng lẽ thắp hương, có hai bó cúc vàng như nắng trên mộ bà. Bà hàng xóm kể: “Đây là những người ăn thiếu của bà bán cháo. Có người còn đi tìm bằng được người con gái của bà ở nơi sơ tán vừa về để trả nợ mấy hào”. Nhiều nhà tầng trên sập, tầng dưới đã lại mở cửa bán hàng.
Hà Nội ngày ấy không ai mất trộm mất cắp, chẳng ai phải đi xin, cũng không ai nỡ ăn uống một mình. Trẻ mồ côi, người già đã có hàng xóm xúm vào lo. Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng có đứa con trai độc nhất là Vương Đình Cung, anh đang học năm cuối đại học cũng xin đi bộ đội.
Báo phỏng vấn cha của anh, ông cười: “Bom đã rơi xuống Hà Nội, con ai thì cũng phải cầm súng chứ có gì đặc biệt”. Bà hiệu trưởng Trường nữ học Tây Sơn cũng đứt ruột chấp nhận cho cậu con trai độc nhất ra đi.
Và các anh ấy đã mãi mãi không về, cũng như em trai tôi – cậu học trò cầm súng đã trở thành đội trưởng đội biệt động TP Huế. Linh hồn trẻ trung của em mãi mãi ở lại với sông Hương, núi Ngự.

Jane Fonda ký tặng tháng 7-1972: “Tặng Tô Minh Nguyệt. Những câu chuyện của bạn chạm vào trái tim tôi. Tôi sẽ luôn nhớ đến bạn và rất hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau khi hòa bình”
2. Giữa những trận bom rơi, chúng tôi về tòa soạn ngồi viết bài rồi rủ nhau đi ăn kem que Bờ Hồ, đi uốn tóc và đùa: “Nó bom cứ bom, mình chén cứ chén”.
Có lần chúng tôi đang cầm que kem ở phố Bà Triệu thì có báo động, rocket đánh trúng sứ quán Pháp cách chỗ chúng tôi vài bước. Ba đứa nhảy xuống một cái hầm cá nhân chật muốn ngộp thở, que kem vẫn cầm trên tay.
Những bài báo của tôi thời ấy có những câu chuyện tang thương khi bom rơi trên hè phố Hà Nội, cũng lại có tình yêu son sắt của những cô gái hậu phương với những anh bộ đội;
Có cô giáo mầm non Trần Thị Tho dạy múa, chăm trẻ bằng bàn tay trái vì tay phải đã bị một mảnh bom cướp mất; có khu kinh tế mới rậm rịch máy cày, máy san, máy ủi; có những cô gái làng hoa vừa rời ghế nhà trường đã trở thành những cô nông dân sản xuất giỏi, lại còn tập luyện thành những cô du kích tài, dùng pháo phòng không bắn rơi máy bay Mỹ.
Trong ấy còn có những lớp học được mở trong tầm súng, bao gồm cả lớp học tiếng Anh của chúng tôi có khi mở trong hầm tránh bom.
Tháng 7-1972, minh tinh Jane Fonda của nước Mỹ tới Hà Nội, cô xông xáo đến nhà máy, ra trận địa pháo. Khi gặp các nữ trí thức của Hà Nội và nói chuyện trực tiếp bằng tiếng Anh với họ, biết cách mọi người thực tập tiếng Anh giữa hai lần báo động, cô khóc sụt sùi.
Lần ấy tôi vừa từ Hàm Rồng (Thanh Hóa) về, đường dài hàng trăm cây số vẫn chỉ đạp chiếc xe Phượng Hoàng. Tôi kể cho Jane nghe những chuyện mình vừa chứng kiến: một em bé đang đi chăn trâu thì trúng bom bi, trước lúc chết em đòi cặp sách, đòi đeo khăn quàng đỏ, nhắn mọi người giúp cha và hai em nhỏ ở nhà vì mẹ đã mất trước đó rồi;
Một chị phụ nữ lấy chồng bộ đội đã sáu năm, vừa có tin mừng đậu thai, chị đang ngồi viết thư báo cho chồng thì bom tới… Jane khóc, ôm chặt tôi: “Tôi sẽ kể lại cho các phi công. Họ chỉ biết bấm nút chứ không biết những mục tiêu của trái bom…”.
Một lần khác Jane Fonda lại đến, giữa lúc đang trò chuyện thì còi báo động chát chúa, mọi người cuống quít chạy sang trường mầm non sát bên, bế những đứa trẻ xuống hầm. Chứng kiến cảnh ấy, nữ tài tử khóc: “Bom rơi ở Việt Nam nhưng bi kịch thì ở nước Mỹ”.
Nghiệp phóng viên chiến trường còn theo tôi dài. Năm 1975 đi cùng đoàn quân giải phóng, tôi đã có mặt ở dinh Thống Nhất ngay ngày 1-5-1975 để viết những bài báo đầu tiên tường thuật ngày hòa bình.
Tất cả rồi đã qua. Tới bây giờ tôi vẫn luôn yêu nghề báo. Cảm ơn nghề báo đã cho tôi đi đây đó, cho tôi được gặp bao người với những cuộc đời là nguồn tư liệu quá chân thực không cần hư cấu.
Từ một cô nữ sinh tôi đi học nghề, làm công nhân để phụ giúp gia đình rồi ham mê viết đưa tôi đến ứng tuyển làm phóng viên. Nghề nào cũng cần tinh thông, nghề báo lại cần đi học nhiều hơn. Tôi luôn phải nhắc mình: Học, đi và đọc. Vừa làm việc vừa học, tôi đã tốt nghiệp ba đại học: văn, cơ khí và chính trị để đeo đuổi được nghề báo của mình.
50 năm nay được làm người Sài Gòn, giờ đã thành bà lão loanh quanh bận rộn với cháu nội cháu ngoại, thú vui của tôi vẫn là được đọc báo hằng ngày, được theo dõi cuộc đời rộng lớn qua những tin tức, bài viết của tờ báo mình yêu thích, tác giả mình yêu mến. Những kỷ niệm của thời làm báo xưa thỉnh thoảng lại ùa về, xao xuyến đầy vơi và chưa bao giờ xa vắng.