Những câu chuyện nhói lòng
Ông Hiền quê ở xã Quỳnh Ngọc, H.Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bố ông từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó tham gia kháng chiến chống Mỹ rồi hy sinh tại chiến trường Quảng Trị năm 1967. Năm 1965, khi mới 16 tuổi, ông Hiền viết đơn xin nhập ngũ và trở thành lính công binh. Năm 1968, ông Hiền được điều chuyển về Ban Tuyên huấn của Ty Giao thông Nghệ Tĩnh và là một trong 2 người ở Nghệ Tĩnh được cử ra Hà Nội học viết báo. Năm 1973, ông theo đoàn dân công hỏa tuyến, sang chiến đấu ở nước bạn Lào, để tác nghiệp. Điều mà đến nay ông Hiền vẫn đau đáu là nhiều nhà báo đã hy sinh trong các chiến trường chưa tìm được hài cốt, không còn người thờ tự.

Nhà báo Trần Văn Hiền ở tuổi 76
ẢNH: K.HOAN
“Khóa 2 báo chí năm 1974 – 1976, tôi có 2 người bạn thân đều sinh năm 1947 là Lang Văn Mẫu (quê Cao Bằng, sau đó công tác tại Báo Hoàng Liên Sơn) và Vũ Hiến (quê Thủy Nguyên, Hải Phòng, Báo Quân chủng Hải quân). Anh Mẫu hy sinh ở chiến trường biên giới phía bắc năm 1979. Anh Hiến hy sinh ngày 7.2.1979, khi đang ngồi trên xe tăng, trước ngực mang khẩu súng AK và một máy ảnh, bị địch bắn khi đang trên đường tiến vào Phnom Penh, Campuchia”, ông Hiền nhớ lại.
Những người hy sinh được bọc trong túi ni lông đặt tại cảng Kampong Som để đưa về nước. Tuy nhiên, lúc đó cảng này bị Pol Pot tái chiếm và chúng đã đốt thi thể của 14 liệt sĩ, trong đó có thi thể liệt sĩ Vũ Hiến, nên không xác định được danh tính của từng người. Sau khi quân cách mạng giành lại cảng, hài cốt các liệt sĩ này được đưa về đảo Thổ Chu (Kiên Giang) an táng.
“Năm 1995, tôi ra Hải Phòng thăm vợ con anh Vũ Hiến. Bà Nguyễn Thị Thân, vợ anh Hiến lúc đó đang sống ở khu tập thể Bộ Tư lệnh Hải quân. Bà Thân nói chỉ nhận được giấy báo tử, không biết chồng hy sinh trong trường hợp nào. Sau đó, tôi tìm đến Lữ đoàn 126, gặp được ông Nguyễn Văn Tình, Lữ đoàn trưởng. Ông Tình kể lại rằng vì muốn đi nhanh để sớm vào Phnom Penh nên anh Vũ Hiến đã đi theo xe tăng. Khi đến ngã ba Valung thì bị lính Pol Pot phục kích. Tôi nghe xong càng thương anh Vũ Hiến hơn. Anh Hiến ra đi để lại 4 người con. Anh Vũ Hiến từng là phóng viên chiến trường thời kỳ chống Mỹ, nhưng khi hòa bình lập lại, anh vẫn tiên phong vào chiến trường Tây Nam khốc liệt”, ông Hiền kể.
Năm 1985, bà Nguyễn Thị Thân từ Hải Phòng vào Kiên Giang để đưa hài cốt chồng về quê. Ông Hiền kể tiếp: “Khi di chuyển hài cốt các liệt sĩ từ cảng Kampong Som về Thổ Chu an táng, không xác định được danh tính các liệt sĩ nên người ta tạm đặt tên trên các phần mộ. Khi cất bốc ngôi mộ mang tên anh Vũ Hiến, chị Thân bảo không phải vì anh Hiến có chiếc răng số 8 bịt vàng nhưng hài cốt này không có. Sau đó, mọi người khấn xin hoàn thổ rồi để hài cốt lại. Về quê, chị Thân nói dối mẹ chồng là anh ấy không muốn về, muốn ở lại với đồng đội, để bà đỡ đau buồn”.
Những nhà báo “hy sinh 2 lần”
“Cha tôi cũng là liệt sĩ. Tôi từng lăn lộn nhiều nơi tìm mộ cha, mãi sau này mới tìm thấy. Cha hy sinh, mẹ tôi là một nông dân, tần tảo nuôi 6 người con nên tôi rất hiểu nỗi đau của những người thân các liệt sĩ”, ông Hiền nói và câu chuyện về người bạn đồng môn liệt sĩ Vũ Hiến đã khiến ông trăn trở và bị thôi thúc, khiến ông phải đi tìm hiểu những nhà báo khác đã hy sinh tại các chiến trường.

Bàn thờ 512 nhà báo liệt sĩ tại chùa Da
ẢNH: K.HOAN
Công tác tại Báo Nghệ An với chức vụ Phó tổng biên tập, nhiều năm qua, ông Hiền âm thầm đến nhiều tỉnh, thành trong nước để tìm hiểu về chân dung các liệt sĩ là nhà báo hy sinh khi đang tác nghiệp ở chiến trường. Nhiều nhà báo hy sinh nhưng chưa thể tìm hài cốt, có nhiều nhà báo, liệt sĩ rơi vào quên lãng. Ông Hiền gọi đó là những nhà báo “hy sinh 2 lần”. “Lần thứ nhất họ hy sinh trên chiến trường, lần thứ 2 là họ mất đi vì bị quên lãng. Tôi thấy sự hy sinh lần thứ 2 còn đáng trăn trở, ám ảnh hơn lần thứ nhất”, ông Hiền nói.
Năm 1995, ông Hiền vào Đông Hà, Quảng Trị, tìm thăm thân nhân nhà báo Dương Phước An, hy sinh năm 1970 tại Hậu Giang. Trên bàn thờ liệt sĩ Dương Phước An còn có 2 di ảnh của 2 con trai anh. “Hỏi ra, tôi mới biết 2 con anh chết do bom Mỹ sót lại sau chiến tranh. Chị Muội, vợ anh, từng học Trường đại học Vinh với anh, quá đau đớn đã hóa điên. Bàn thờ nguội lạnh không ai hương khói. Xót xa vô cùng!”, giọng ông Hiền chùng xuống.
Sau chuyến đi đó, ông Hiền lặn lội đến An Giang, thăm thân nhân 2 nhà báo là anh em ruột Bùi Văn Thưởng và Bùi Văn Tấn, đều ở Thông tấn xã VN, hy sinh tại chiến trường Đông Nam bộ. Bà Tám Nghiệp, mẹ của 2 liệt sĩ, bị bệnh đã mất nên không còn ai thờ cúng. Rồi nhà báo Phạm Hồ, quê Hương Sơn, Hà Tĩnh, Báo Quân khu V. Cưới vợ được 3 ngày, anh Hồ vào Quảng Nam, cũng hy sinh, vợ đi bước nữa cũng không có ai thờ phụng. Ông Hiền kể: “Tôi ra thăm thân nhân liệt sĩ, nhà báo Lê Văn Luyện, ở H.Nghi Lộc, Nghệ An, phóng viên của Thông tấn xã Khu V, hy sinh năm 1970 tại Quảng Nam. Thấy bàn thờ nguội lạnh, hỏi ra mới biết, anh có 3 người con, 2 trai 1 gái, vợ đã mất. Con trai đầu tốt nghiệp đại học, được bố trí dạy ở Nghệ An nhưng anh vẫn xin vào Quảng Nam dạy học để tìm hài cốt cha. Chưa tìm được thì anh bị nhiễm chất độc da cam, mắc bệnh nặng rồi chết. Con gái thứ 2 đi lấy chồng, con trai út cũng nhiễm chất độc da cam khiến bị mù, rất tội”.
Từ năm 1995, ông Hiền lập một bàn thờ nhỏ trong phòng làm việc của mình để tưởng nhớ các liệt sĩ, nhà báo không còn người thờ tự. Năm 2009, nghỉ hưu ở Báo Nghệ An, chuyển qua làm Trưởng đại diện của Tạp chí Người Làm Báo, ông Hiền vẫn duy trì bàn thờ này trong phòng làm việc của mình. Năm 2020, ông Hiền sang chùa Da cạnh nhà ông (ở khối Hòa Tiến, P.Hưng Lộc, TP.Vinh), đặt vấn đề với sư trụ trì và các cơ quan liên quan muốn lập bàn thờ để thờ tự các nhà báo liệt sĩ tại chùa và được chấp nhận. Ông rất vui và sau đó rong ruổi khắp các tỉnh, thu thập tư liệu, phối hợp xin rước linh các nhà báo liệt sĩ về chùa Da để thờ phụng. Hiện tại chùa, ông đang hương khói thờ phụng 512 liệt sĩ nhà báo với đầy đủ thông tin tên tuổi, quê quán và ngày tháng hy sinh.
“Tôi rất vui vì Hội Nhà báo VN và lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã đồng ý xây dựng đền thờ để thờ các liệt sĩ, nhà báo tại chùa Da. Mai này mình mất đi, các đồng nghiệp cũng có người hương khói, đỡ cô quạnh là an tâm rồi”, ông Hiền phấn chấn.
Tháng 7.1993, trong một lần đi công tác ở huyện miền núi Anh Sơn, Nghệ An, ông Hiền ghé Nghĩa trang liệt sĩ Việt – Lào thắp hương. “Hôm đó, nhìn nghĩa trang hầu hết đều ghi liệt sĩ vô danh. Đau xót quá, tôi tự hỏi, sao lại gọi các anh là vô danh…”, ông Hiền kể. Bài thơ “Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ Vô danh” được ông viết sau đó với những câu thơ đầy trăn trở: “Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ Vô danh/Anh có tên như bao khuôn mặt khác/Mẹ sinh Anh tròn ngày, tròn tháng/Cha đặt tên chọn tuổi, chọn mùa/Anh nhận ra lưỡi cày, lưỡi hái/Vệt mòn dưới nắng, dưới mưa…”. Sau khi bài thơ được đăng trên các báo và tạp chí, Đài truyền hình VN đã xây dựng bộ phim tài liệu “Không ai là vô danh” phát sóng nhân ngày 27.7.1995. Không lâu sau, hơn 400.000 ngôi mộ liệt sĩ tại các nghĩa trang trong cả nước được đổi lại tên gọi “liệt sĩ vô danh” thành “liệt sĩ chưa tìm thấy tên và quê quán”.