Những bông hồng ra đời trong khói lửa chiến tranh

Những bông hồng ra đời trong khói lửa chiến tranh

bởi

trong

Trang sách là cuộc đời

Họ là 4 nữ nhà văn cùng xuất thân là sinh viên Khoa Văn, Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, cùng học chung một khóa (1966 – 1970).

Tháng 9.1970, khi mà cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam bước vào giai đoạn quyết liệt và khốc liệt nhất, họ – cả 4 cô gái trẻ măng đang ở vào lứa tuổi thanh xuân của đời sinh viên ấy – vừa học xong năm thứ 3, cùng được tuyển chọn qua học khóa đào tạo viết văn đặc biệt: “Khóa 4 – đào tạo những người viết trẻ – khóa đặc biệt dành cho miền Nam” do Ban tổ chức Trung ương, Ban Thống nhất Trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.

Sau khóa đào tạo viết văn ngắn hạn, họ đã lên đường hành quân để vào công tác ở các chiến trường miền Nam. Ở đó, họ đã sống và chiến đấu như những người chiến sĩ và cầm bút viết như những nhà văn, nhà báo giữa chiến trường.

Những bông hồng ra đời trong khói lửa chiến tranh

Sách Hoa hồng trong lửa, nhiều tác giả (NXB Hội Nhà văn)

ẢNH: HÀ TÙNG SƠN

Tác phẩm của 4 nữ nhà văn – chiến sĩ ấy đã ra đời trong lửa đạn của chiến tranh để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Và hôm nay, họ tập hợp một phần trong số tác phẩm đã viết ấy để in thành một cuốn văn xuôi, thơ tuyển chọn dày gần 400 trang.

Những bông hồng ra đời trong khói lửa chiến tranh- Ảnh 2.

4 nhà văn Bùi Thị Chiến, Vũ Thị Hồng, Trần Thị Thắng, Hà Phương gặp nhau tại Đà Nẵng sau ngày 30.4.1975

ẢNH: T.T.T

Khi vào đến chiến trường, Bùi Thị Chiến làm nhiệm vụ của một phóng viên Tạp chí Văn nghệ Trung Trung bộ, thuộc Ban Tuyên huấn Khu 5. Vũ Thị Hồng là phóng viên Tạp chí Quân giải phóng Trung Trung bộ. Trần Thị Thắng là cán bộ tổ chức Thành ủy Sài Gòn – Gia Định. Đỗ Thị Thanh (tức Hà Phương) nhận công tác ở Hội Văn nghệ Giải phóng khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định. Dù ở những vị trí công tác và địa bàn khác nhau nhưng họ đều giống nhau ở một điểm là tràn đầy nhiệt huyết, sống và viết với tất cả lòng yêu nước của tuổi trẻ. Và vì thế, họ đã viết nên những tác phẩm để đời.

Bùi Thị Chiến – luôn sống hết mình vì lý tưởng

Trong Hoa hồng trong lửa, Bùi Thị Chiến chọn in 3 truyện ngắn: Người vùng sâu, Dừa không lá, Khi đàn hải âu bay qua. Trong đó Người vùng sâu là truyện ngắn đầu tay của chị. Ở truyện ngắn đầu tay này, Bùi Thị Chiến đã lấy nguyên mẫu nhân vật chính là đội trưởng đội du kích xã Hoài Thanh, huyện Hoài Nhơn chị đã gặp trong hội nghị thi đua điển hình cấp quân khu. Trong truyện có chi tiết người vợ của anh bị địch trả thù bằng cách tiêm thuốc để không thể có con, nhưng là sự thật mà anh cố giấu. Lần sau gặp lại, anh ấy hỏi sao chị biết được điều đó. Câu hỏi của người đội trưởng du kích đã khiến nữ nhà văn trẻ Bùi Thị Chiến nghẹn lòng.

Để viết những trang văn như thế, Bùi Thị Chiến đã lăn lộn cùng cuộc sống của đồng bào và chiến sĩ. Chị từng kể về những năm tháng khốc liệt đó. Tháng 10.1971, chị về công tác tại Hội Văn nghệ Trung Trung bộ, được phân về quê hương Bình Định. Chị hoạt động chủ yếu ở vùng Mỹ Thọ, Mỹ Thành, Mỹ Lộc (Phù Mỹ), rồi ra Hoài Nhơn, Hoài Ân. Ban ngày chị đi thực tế, gặp gỡ người dân, đêm về ngủ nhà dân hoặc chạy ra bìa rừng để ngủ vì sợ địch càn bất thường. Gian khổ ác liệt lắm, nhưng Bùi Thị Chiến thấy cuộc sống vẫn tươi đẹp, vẫn sống hết mình vì lý tưởng, không chút đắn đo vị kỷ. Có lẽ vì thế mà truyện ngắn Bùi Thị Chiến luôn bám sát hiện thực cuộc sống và toát lên sự chân thực, giản dị.

Vũ Thị Hồng – có gì ngăn cản ta không được nghĩ về nhau

Góp mặt trong tập sách, Vũ Thị Hồng chọn truyện ký Chạm vào ký ức. Đây là truyện ký dày dặn kể về cuộc sống và chiến đấu của Vũ Thị Hồng đã cùng với đồng bào, chiến sĩ ở vùng đất xứ dừa Tam Quan, Bình Định vào thời điểm năm 1973. Trong những trang viết của Vũ Thị Hồng hiện lên những con người cụ thể. Đó là những nhân vật có thật như nữ cán bộ Thục. Đó còn là những người dân yêu nước sẵn lòng phục vụ cách mạng như chú Năm và những người thân trong gia đình một nông dân ở xứ dừa Hoài Nhơn.

Điều đáng quý trong văn Vũ Thị Hồng là giữa cuộc sống hiện thực ngổn ngang sự kiện ấy, chị vẫn để cho những dòng văn trữ tình hiện lên sâu lắng như một cơn mưa rào xuất hiện giữa nắng cháy mùa hạ. Ngày 17.7.1973 sau một tuần sống trên đất Hoài Nhơn chị đã viết những điều rất riêng tư: “Tự nhiên lại nhớ đến Quân. Con đường của chúng ta đã cách xa nhau từ lâu, cái ngày xa xôi mà anh vẫn từng ao ước sẽ không bao giờ có. Vẫn biết thế nhưng có gì ngăn cản ta không được nghĩ về nhau”.

Đó chỉ có thể là những dòng chữ của một thời con gái… đã rất xa.

Trần Thị Thắng – “Vịn vào thơ để sống”

Góp mặt vào Hoa hồng trong lửa là cuốn nhật ký văn học của Trần Thị Thắng với một cái tên rất lý luận văn học: Vịn vào thơ để sống.

Với hơn 140 trang nhật ký ghi theo kiểu tuần tự thời gian, Trần Thị Thắng đưa người đọc đến với câu chuyện chị cùng 3 người bạn đã rời giảng đường Khoa Văn, Trường ĐH Tổng hợp để trở thành nhà văn, chiến sĩ. Đó là một câu chuyện mà ngày nay nhớ lại sẽ thấy rất khủng khiếp nhưng vào cái năm 1970 của đất nước ta ấy thì lại thấy nó rất giản dị và rất đời thường. Bởi đó là chiến tranh.

Cô sinh viên Khoa Văn, Trường ĐH Tổng hợp 22 tuổi Trần Thị Thắng lên đường với câu thơ như giục giã mang ý nghĩa như một câu khẩu hiệu của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Và với tâm trạng lạc quan yêu đời ấy, mỗi ngày Trần Thị Thắng sống là một bài thơ cuộc đời xuất hiện. Thơ Trần Thị Thắng ở tuổi thanh nữ ấy thấm đầy chất lãng mạn hào sảng và rất văn khoa.

Hãy nghe thơ chị tả về miền biên ải phía bắc ngày ấy:Hỡi hồn ngựa hí hoang xa/Gươm khua, tiếng hét vang ca đêm kề/Mái tranh khói thả sương về/Tiếng cha bóng mẹ bốn bề bên anh” (Một ngày nơi biên ải).

Sau này trên đường vào chiến trường, khi đi qua sông Gianh, cái nhìn về chiến tranh của Trần Thị Thắng đã thực tế hơn, khốc liệt hơn: “Chiến tranh ta phải rời nhà/Bao người trở lại để mà nuôi cha/Bao người chết dễ thành ma/Ai người cúng thí nơi xa chiến trường” (Sông Gianh).

Cái hay của những trang viết Trần Thị Thắng trong Hoa hồng trong lửa là chất nữ tính của chị dù đó là văn hay thơ. Ngày 15.5.1971, khi đặt chân đến binh trạm 53 với một chiếc ba lô rất nặng, Trần Thị Thắng đã viết bài thơ Em nhắc tên anh với những câu thơ rất con gái:

Hành quân qua suối đèo

Em chẳng tính đường bằng cây số

Mà tính lần em nhắc tên anh

Đường Trường Sơn đi xa mãi hóa gần

Anh gần em đo bằng nỗi nhớ

Cứ thế, Trần Thị Thắng “đi” vào cuộc chiến tranh cứu nước cho đến ngày Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, thống nhất đất nước. Chị đã sống vì đã biết “vịn vào thơ”.

Hà Phương (Đỗ Thị Thanh) – chỉ tình người dành trọn cho nhau

Sinh năm 1950, là cô gái trẻ nhất nhóm 4 nữ sinh viên trẻ lên đường vào chiến trường để trở thành một cây bút của Văn nghệ Giải phóng. Ở Hà Phương, chất báo chí rất nổi trội nhưng đằm thắm chiều sâu lắng là những bài thơ cuộc đời chị đã viết mang đậm chất triết lý. Với Hoa hồng trong lửa Hà Phương đã chọn 32 bài thơ để in vào sách. Đó là những bài về đề tài Trường Sơn trên đường hành quân và về chiến trường B2 với những tháng ngày chiến tranh ì ầm bom đạn. Thơ Hà Phương vì thế đã mô tả một hiện thực khốc liệt của chiến trường mà ngày nay thế hệ trẻ khó hình dung nổi:

Chỉ riêng sông mới có trăng trong

Nhưng không thuyền trôi theo tiếng hát

Tầm vông bên bờ im trong cảnh giác

Gái trai phải ôm súng đạn tâm tình

(Nơi xa này em gửi về anh)

Cái hình ảnh “gái trai phải ôm súng đạn tâm tình” chắc chắn sẽ còn mãi trong tâm khảm đất nước ta với một thế hệ đã lên đường tham gia bảo vệ Tổ quốc như Hà Phương và bè bạn.

Bốn gương mặt và một bộ sưu tập giàu ý nghĩa

Đó chính là sự khái quát đầy đủ nhất về tập văn xuôi, thơ Hoa hồng trong lửa.

Chiến tranh đã đi qua, đất nước ta đã sống trọn 50 năm trong hòa bình. Nhưng ký ức về những năm tháng chiến tranh, về những con người – chiến sĩ và về những nhà văn – chiến sĩ như các tác giả Bùi Thị Chiến, Vũ Thị Hồng, Trần Thị Thắng, Hà Phương vẫn sống mãi trong lịch sử văn học nước nhà. Chính họ đã góp phần dựng nên một tượng đài văn học về chiến tranh mà trong đó, gánh nặng đã đặt lên vai những người con gái. Đọc Hoa hồng trong lửa độc giả ngày nay sẽ có cơ hội hiểu thêm một phần của lịch sử văn học đương đại Việt Nam, và từ đó càng kính trọng thêm những trang viết – cuộc đời của họ.