Thu hẹp hình phạt tử hình nhưng vẫn đảm bảo tính răn đe, nghiêm khắc

Thu hẹp hình phạt tử hình nhưng vẫn đảm bảo tính răn đe, nghiêm khắc

bởi

trong

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (BLHS) được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 9, khóa XV.

Một trong những nội dung sửa đổi của dự án Luật này là dự kiến bỏ hình phạt tử hình tại 8/18 tội danh có khung hình phạt tử hình; bổ sung trường hợp không thi hành án tử hình với người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, người nhiễm HIV đã chuyển qua giai đoạn AIDS…

Dự thảo Luật ban đầu trình Quốc hội đề xuất thay thế hình phạt tử hình bằng hình phạt tù chung thân không xét giảm án, song dự thảo mới nhất đã bỏ các quy định liên quan hình phạt này. Riêng đối với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, nhằm bảo đảm thu hồi tài sản do phạm tội mà có, đồng thời khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo trong quá trình giải quyết vụ án, dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 63 theo hướng: “Người bị kết án tù chung thân về tội Tham ô tài sản, tội Nhận hối lộ chỉ có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt khi đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”.

Thu hẹp hình phạt tử hình nhưng vẫn đảm bảo tính răn đe, nghiêm khắc

Thu hẹp hình phạt tử hình là xu hướng chung trên thế giới (Ảnh minh họa: CV)

Về nội dung trên, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho hay trong Ủy ban có 2 loại ý kiến. Thứ nhất là tán thành việc bỏ hình phạt tử hình tại 8 tội danh có khung hình phạt tử hình như đề xuất của Chính phủ.

Thứ hai là tán thành chủ trương tiếp tục xem xét bỏ hình phạt tử hình ở các tội danh còn hình phạt này trong BLHS. Tuy nhiên, việc xem xét bỏ hình phạt này ở tội danh nào trong lần sửa đổi, bổ sung này cần cân nhắc kỹ, tránh tác động tới hiệu quả răn đe, phòng ngừa và xử lý tội phạm. Theo đó, đề nghị cân nhắc thận trọng việc bỏ hình phạt tử hình đối với Tội tham ô, Tội nhận hối lộ, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ bình luận về việc bỏ hay giữ án tử hình đối với tội tham ô và tội nhận hối lộ. Đặc trưng của loại tội phạm tham nhũng là người phạm tội có chức vụ do bổ nhiệm, bầu cử, hợp đồng hoặc do một hình thức khác. Họ thực hiện hành vi phạm tội trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhằm mục đích thu lợi nhưng có tính chất phi bạo lực, không xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Chính đặc điểm này là căn cứ chủ yếu để hầu hết các quốc gia không áp dụng hình phạt tử hình đối với loại tội phạm tham nhũng.

Tội phạm tham nhũng đã xuất hiện từ khi có nhà nước. Trong thời La Mã, phiên tòa nổi tiếng nhất là vụ xử Gaius Verres, một vị quan chấp chính vì tội tham nhũng, nhận hối lộ. Phiên tòa kết thúc, Gaius Verres, bị tịch thu tài sản và chịu tội lưu đày.

Truyền thống không áp dụng hình phạt tử hình đối với tội phạm tham nhũng được duy trì ở phương Tây trong hầu hết thời Trung cổ và cận hiện đại. Cho tới 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) minh thị: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống… Ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được phép áp dụng án tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất”. Tội ác nghiêm trọng nhất theo diễn giải Quy chế Rome về Tòa án hình sự Quốc tế ICC gồm bốn tội ác: tội diệt chủng, tội ác chống lại loài người, tội ác chiến tranh và tội ác xâm lược. Nghĩa là tội tham nhũng không nằm trong danh sách bốn tội ác nghiêm trọng nhất nên không áp dụng án tử hình.

Việc áp dụng án tử hình đối với tội phạm tham nhũng hàm chứa nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa. Ở phương Đông, ngay từ thời cổ đại, do ảnh hưởng của tư tưởng Pháp gia, quan niệm các tội phạm tham nhũng “đe dọa trực tiếp tới trật tự xã hội và quyền lực tối cao” cho nên hình phạt cho loại tội phạm này là án tử. Truyền thống pháp luật này ảnh hưởng tới các bộ hình luật của nước ta. Trong Bộ Luật Hồng Đức thời nhà Lê quy định tại Điều 42: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 20 quan trở lên thì xử tội chém”, Điều 101: “ăn hối lộ mà đổi trắng thay đen thì xử tội chết”, Điều 626: “đòi hối lộ thì xử tội lưu hay tội chết”…

Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1985, sửa đổi 1999 và sửa đổi 2015 đều quy định án tử hình đối với tội tham ô, nhận hối lộ.

Điểm qua lịch sử hình phạt tử hình đối với tội danh tham nhũng, theo tôi, đề xuất bỏ án tử hình đối với hai tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ là một bước chuyển phù hợp với xu hướng tất yếu và yêu cầu chung của thế giới và trong nước.

Thứ nhất, đây là xu thế toàn cầu. Nó thể hiện qua các văn kiện quốc tế, như Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948; Công ước ICCPR năm 1966; Nghị định thư số 2 của ICCPR năm 1989 về bãi bỏ hình phạt tử hình; Nghị định thư số 13 của Công ước châu Âu về nhân quyền năm 2002 về bãi bỏ án tử hình trong mọi hoàn cảnh.

Ở Việt Nam, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2020 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Thứ hai, bỏ án tử hình để hạn chế rủi ro oan sai, bởi khi thi hành án tử thì không thể khắc phục. Trong thực tiễn, nhiều quốc gia đã công khai thừa nhận từng kết án tử hình oan sai. Theo Trung tâm thông tin về án tử hình (Hoa Kỳ) công bố: Từ năm 1973, ít nhất 200 người bị kết án oan và bị tuyên án tử hình tại Hoa Kỳ được minh oan.

Mục đích của hình phạt là nhằm thị uy, đền tội và hoán cải, trong đó theo tôi hoán cải có ý nghĩa rất quan trọng.

Thứ ba, có bằng chứng cho thấy không có mối tương quan rõ rệt giữa án tử hình với tỉ lệ tội phạm thấp hơn. Nghĩa là, việc áp dụng án tử hình đối với tội phạm tham nhũng chưa chắc đã làm giảm hành vi tham ô, nhận hối lộ của người có chức vụ. Thực tiễn phòng chống tham nhũng ở Hàn Quốc, Singapore và các nước Bắc Âu cho thấy, chính hệ thống pháp luật nghiêm minh, cơ chế giám sát hiệu quả, văn hóa xã hội coi trọng đạo đức và trung thực mới là những yếu tố giúp các quốc gia này có tỉ lệ tội phạm tham nhũng rất thấp.

Cuối cùng, ở Việt Nam, việc bỏ án tử hình đối với tội phạm tham nhũng còn là vấn đề kỹ thuật pháp lý nhằm đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã gia nhập, phê chuẩn và là thành viên của Công ước ICCPR (năm 1982), Công ước Liên hiệp quốc chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (năm 2000), Công ước Liên hiệp quốc chống tham nhũng (năm 2009), và 10 hiệp định song phương về dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù mà Việt Nam đã ký kết và hoàn thành việc đàm phán vào năm 2023.

Cuộc tranh luận bỏ hay giữ án tử hình nói chung đã kéo dài hàng thế kỷ, nhưng việc không áp dụng án tử hình cho tội phạm tham nhũng thì lại đạt được sự đồng thuận của hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Việt Nam đang trong tiến trình đề xuất bỏ áp dụng án tử hình đối với tội phạm tham nhũng như những lập luận phía trên. Việc từ bỏ này không dễ dàng với quan niệm “xử tử quan tham” vì “quan tham là hại nước”…

Tuy nhiên, các nghiên cứu về tội phạm tham nhũng cho thấy có thể áp dụng nhiều biện pháp liên ngành, đa ngành để giảm thiểu tỷ lệ tội phạm này như các nước Hàn Quốc, Singapore, Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy… đã thực hiện thành công. Vì vậy, xu hướng bỏ án tử hình đối với tội phạm tham nhũng là phù hợp với xu thế toàn cầu, bảo đảm tính nhân đạo nhưng vẫn đủ tính răn đe, nghiêm khắc.

Tác giả: Ông Trịnh Minh Tuấn là người sáng lập Công ty cổ phần xuất bản và giáo dục Quảng Văn, Ehomebooks và Trung tâm nghiên cứu xuất bản – giáo dục IPER.

Chuyên mục TÂM ĐIỂM mong nhận được ý kiến của bạn đọc về nội dung bài viết. Hãy vào phần Bình luận và chia sẻ suy nghĩ của mình. Xin cảm ơn!