Du lịch bền vững sẽ nhanh chóng thành ngành kinh tế mũi nhọn
Trong bàn tròn thảo luận tại hội thảo “Công nghiệp văn hóa với phát triển du lịch bền vững tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” diễn ra ngày 30/10, hàng loạt nội dung được các chuyên gia trong và ngoài nước mổ xẻ.
Khái niệm “Công nghiệp văn hóa” có thể hiểu là thuật ngữ sử dụng cho các ngành công nghiệp kết hợp sự sáng tạo, sản xuất và thương mại hóa các nội dung sáng tạo.
Khi kết hợp công nghiệp văn hóa với du lịch giúp tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, tăng khả năng cạnh tranh cho các điểm đến. Ngược lại, du lịch lại là kênh lan tỏa mạnh mẽ, đưa các sản phẩm văn hóa đến gần hơn với công chúng trong và ngoài nước.

Khi phân tích vấn đề này, Giáo sư, Tiến sỹ Đào Mạnh Hùng, Chủ tịch Liên chi hội Đào tạo Du lịch Việt Nam nhấn mạnh, công nghiệp văn hóa và du lịch là hai trụ cột cùng kiến tạo giá trị phát triển bền vững.
“Du lịch là kênh quảng bá hiệu quả nhất cho công nghiệp văn hóa, đồng thời chính công nghiệp văn hóa lại cung cấp cho du lịch những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của điểm đến.
Việt Nam đặt mục tiêu để các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030, trong đó du lịch văn hóa được xác định là trụ cột quan trọng”, Giáo sư Đào Mạnh Hùng phân tích.
Trên thực tế trong bối cảnh này, công nghiệp văn hóa đang đóng góp tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập người dân. Giai đoạn 2018-2022, số lượng cơ sở kinh tế hoạt động trong ngành công nghiệp văn hóa tăng 7,2%/năm.
Năm 2022, toàn quốc có hơn 70.300 cơ sở với 2,3 triệu lao động. Năm 2018, công nghiệp văn hóa xuất siêu 37 tỷ USD, năm 2022 tăng lên 41,9 tỷ USD. Các ngành công nghiệp văn hóa còn góp phần quan trọng đưa văn hóa Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới, quảng bá hình ảnh, bản sắc, gia tăng sức hấp dẫn, sức mạnh mềm văn hóa quốc gia.
Đơn cử như Hà Nội, Đà Lạt, Hội An gia nhập mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO, là căn cứ vững chắc để Việt Nam xác định mục tiêu giai đoạn tới trở thành trung tâm công nghiệp văn hóa thu hút và hội tụ sáng tạo tại Đông Nam Á.
Việt Nam bốn lần được vinh danh là điểm đến di sản hàng đầu thế giới, cho thấy giá trị nổi bật toàn cầu và sức hấp dẫn của du lịch văn hóa.
Các ngành công nghiệp văn hóa có tỷ lệ giá trị gia tăng cao hơn so với chi phí sản xuất, góp phần tiết kiệm tài nguyên, phát huy văn hóa và bản sắc dân tộc, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Nếu chúng ta biết khai thác tài sản trí tuệ, nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc thì đây sẽ là nguồn tài nguyên vô tận của quốc gia.
Ở góc độ địa phương, Tiến sĩ Bùi Văn Mạnh, Giám đốc Sở Du lịch Ninh Bình cũng đưa ra những kinh nghiệm phát triển du lịch văn hóa gắn với di sản. Ông cho rằng việc phát huy giá trị bản địa phải bắt đầu từ những lựa chọn đầu tư phù hợp, mang tính lan tỏa lâu dài.
Theo ông Mạnh, “du lịch văn hóa có phát triển được hay không là bắt đầu từ địa phương, từ đó tạo sức cộng hưởng để phát triển công nghiệp văn hóa của cả nước”.
Các chuyên gia trong và ngoài nước “hiến kế”
Nhìn sang các nước lân cận như Hàn Quốc hay Thái Lan, Singapore đây đều là những nơi sớm phát triển công nghiệp văn hóa gắn với du lịch để thúc đẩy nền kinh tế.
Hay như tại Singapore, quốc gia này vài năm trở lại đã phát triển các concert (tạm dịch: buổi biểu diễn) tầm cỡ quốc tế để thu hút du lịch. Quốc gia này xem đây là một chiến lược quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế, đặc biệt là ngành dịch vụ như khách sạn, nhà hàng và vận tải.
Đơn cử như thành công từ các sự kiện như tour diễn của Taylor Swift (năm 2024) đã cho thấy sức hút của du lịch âm nhạc, đồng thời khẳng định Singapore là điểm đến lý tưởng cho các chương trình văn hóa và thể thao lớn.
Để duy trì lợi thế cạnh tranh, Singapore không ngừng đầu tư vào cơ sở hạ tầng và đa dạng hóa các sự kiện. Qua đó, nước này thu về khoảng 333 triệu USD từ các concert của loạt sao quốc tế.
Trong khi đó tại Thái Lan cũng đã phát triển ngành công nghiệp concert để thu hút du lịch thông qua việc tổ chức các sự kiện âm nhạc lớn (đặc biệt là K-pop và EDM), tận dụng các yếu tố văn hóa độc đáo để quảng bá và tạo thêm các sản phẩm du lịch, và hỗ trợ của chính phủ.
Các buổi hòa nhạc giúp thu hút lượng lớn khách du lịch quốc tế và trong nước, thúc đẩy chi tiêu vào các dịch vụ như lưu trú, ăn uống, mua sắm và các hoạt động giải trí khác. Với bước tiến này, năm 2024 nhờ thành công từ các concert quốc tế, Thái Lan thu 86 tỷ USD từ các sự kiện văn hóa, giải trí.

Thời gian qua, những đại tiệc âm nhạc tại Việt Nam quy tụ các anh trai, chị đẹp, mang tới nguồn thu khổng lồ cho du lịch (Ảnh: BTC).
Dữ liệu mới nhất từ Booking.com cho thấy, với nhiều du khách, chính những sự kiện âm nhạc là yếu tố chính thôi thúc họ đi du lịch chứ không phải điểm đến.
Sau khi G-Dragon công bố tổ chức concert tại Hà Nội, lượt tìm kiếm nơi lưu trú tại thủ đô trong thời gian diễn ra concert (6–9/11) tăng hơn 250% so với cùng kỳ năm trước.
Theo Báo cáo Xu hướng Du lịch 2025 (Travel Trends 2025) của Booking.com, 68% du khách Việt được truyền cảm hứng du lịch từ mạng xã hội, trong khi 33% bị ảnh hưởng bởi phim ảnh hoặc chương trình truyền hình.
Điều này cho thấy nội dung liên quan đến văn hóa đang trực tiếp tác động mạnh mẽ đến ý định du lịch của du khách. Văn hóa đại chúng, vốn chỉ là một hình thức giải trí, nay trở thành chất xúc tác mạnh mẽ, khơi dậy hứng thú cho những chuyến đi.
Theo số liệu khảo sát, 62% du khách Việt cho biết họ đã đi du lịch trong năm 2024 để tham dự một sự kiện như concert, trong khi 38% xem âm nhạc và lễ hội là yếu tố quan trọng khi chọn điểm đến.
Từ những số liệu phân tích, GS Kim Joon-ho đến từ Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc), chia sẻ kinh nghiệm phát triển du lịch gắn với công nghiệp văn hóa thông qua mô hình “làn sóng Hallyu”.
Ông cho rằng Việt Nam có tiềm năng lớn để tạo ra làn sóng văn hóa Việt với âm nhạc, ẩm thực, điện ảnh và di sản địa phương nếu được định hướng chiến lược bài bản và đầu tư đúng mức.

Trong khi đó, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Công nghiệp văn hóa, Đại học Bắc Kinh kiêm Chủ tịch Chương trình Phát triển bền vững và sáng tạo nông thôn của UNESCO, Giáo sư, Tiến sỹ Hướng Dũng đã gợi ý 3 tầm nhìn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho Việt Nam tham khảo.
Ở tầm nhìn ngắn hạn, theo Giáo sư Hướng Dũng, cần sắp xếp nguồn tài nguyên văn hóa bản địa, xây dựng kho dữ liệu và khai thác từ những câu chuyện nhỏ ở địa phương.
Với tầm nhìn trung hạn, cần xây dựng cơ chế phát triển sản phẩm tái sinh. Còn tầm nhìn dài hạn, theo ông, Việt Nam phải xây dựng hệ sinh thái toàn chuỗi của ngành công nghiệp văn hóa, thúc đẩy hòa nhập trong vòng tròn văn hóa khu vực.
Cùng với đó, đại diện Hiệp hội Du lịch Việt Nam, ông Nguyễn Hồng Hải, Phó Chủ tịch Hiệp hội cũng đề xuất nhiều giải pháp để hiện thực hóa mục tiêu “kết hợp giữa công nghiệp văn hóa và du lịch bền vững là hướng đi tất yếu để phát triển kinh tế tri thức, tăng trưởng xanh và bảo tồn di sản”.
Cụ thể, Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái công nghiệp văn hóa gắn với chuỗi giá trị du lịch của từng địa phương; phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc sắc; thúc đẩy chuyển đổi số trong quảng bá du lịch, văn hóa.
Ngoài ra, chúng ta cũng tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp; đồng thời chú trọng đào tạo nguồn nhân lực sáng tạo và hỗ trợ khởi nghiệp trong lĩnh vực văn hóa du lịch.
